Nói Chuyện Với Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai
Tạp Chí TRẺ , Jun 02, 2009
Lời nói đầu của Phóng viên Tạp Chí Trẻ: Qua lời giới thiệu của anh Nguyễn Trọng Huấn, một Cựu Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến, thành viên Hội Quảng Đà Dallas-Fortworth, Texas, đã đưa chúng tôi đến thăm Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai tại Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt Cao Niên Garland, Texas
Chúng tôi đến Trung Tâm vào giờ ăn trưa của các cụ nơi đây và được bác Đỗ, Giám đốc Trung Tâm tiếp đón. Bác Đỗ nhờ người thưa với Cựu Thiếu Tường Đỗ Kế Giai là có nhà báo chúng tôi xin được gặp ông, và mời ông Tướng ra phòng khách để cho chúng tôi được gặp, bác Đỗ cho chúng tôi biết ông Đỗ Kế Giai hôm nay không được khoẻ lắm..
Rồi tôi thấy Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đi vào phòng khách của Trung Tâm. Hình ảnh một vị cao niên chống gậy vẫn không che được phong cách và uy nghi của một vị Tướng lãnh từng một thời oai vũ.
Chân dung và tiểu sử Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai được ghi lại không đầy đủ như sau: Ông xuất thân Khoá 5 Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, ra trường Tháng 4/1952, ông về phục vụ Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đóng ở Hà Nội. Năm 1954, ông là sĩ quan hành quân “Officier Adjoint” cho Thiếu tá Mollo ở Đồng Đế, Nha Trang, với cấp bậc Trung úy. Cấp bậc cuối cùng của ông là Thiếu Tướng Biệt Động Quân, chỉ huy Lực Lượng bảo vệ Sài Gòn cho tới khi nhận lệnh buông súng…
Những người đàn anh của tôi ở đây là những cựu Trung úy, cựu Đại úy đang làm thiện nguyện ở Trung Tâm, các anh lo bữa ăn trưa cho vài chục cụ người Việt cao niên ở đây, các cụ đang… nói chuyện, chơi cờ, xem ca nhạc Asia và chờ cơm. Thấy Thiếu Tướng đi tới các anh đến mới ông đến chiếc ghế êm ả nhất phòng. Tôi cúi chào Thiếu Tướng.
Phóng Viên Trẻ: “Thưa bác, cháu là phóng viên Tạp Chí Trẻ. Xin được chào bác, chúc bác sức khoẻ. Xin được hỏi bác đôi điều…”
Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai: “Từ ngày xưa, tôi đánh giặc đã không thích kể chuyện đăng báo vì kể lể chiến công với báo chí tôi cho là việc tự kể cho đối phương nghe, biết chiến thuật của mình”
PV Trẻ: “Thưa bác, cháu xin không hỏi bác nhiều về những chuyện đã qua. Thay mặt Nhóm thực hiện báo Trẻ, cháu đến thăm hỏi sức khoẻ bác vì được nghe bác đã tham gia sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên Garland.”
CTTĐKGiai: “Nếu anh muốn hỏi gì thì phải đợi tôi nói xong hãy hỏi tiếp, đừng hỏi ngang làm tôi quên chuyện tôi đang nói…”
PV Trẻ: “Thưa bác, bác có viết quyển hồi ký nào không?”
CTTĐKGiai: “Tôi không viết hồi ký vì những đánh bóng cá nhân hay chạy tội trước lịch sử đều không phải là hồi ký. Theo thời gian, tôi chỉ nói ra những gì tôi thấy là cần thiết…”
PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã trả lời. Xin hỏi bác đã đi “cải tạo” bao nhiêu năm?”
CTTĐKG: “Tôi không có đi cải tạo. Tôi đi tù.”
PV Trẻ: “Xin lỗi bác, cháu chỉ muốn dùng lời nói cho nó nhẹ nhàng thôi!”
CTTĐKG: “Ngày tôi đi phỏng vấn ở Trụ Sở ODP để sang đây, có người thông dịch viên cũng hỏi tôi một câu như thế. Tôi cũng trả lời rõ ràng như thế. Và ông nhân viên Mỹ nói luôn với tôi: “Mời ông ký giấy tờ để hoàn tất thủ tục.”
PV Trẻ: “Thưa bác, thời gian… ở tù của bác bao lâu?”
CTTĐKG : “17 năm thiếu 10 ngày.”
PV Trẻ: “Xin hỏi: Có phải bác là người đi tù sớm nhất và về trễ nhất?”
CTTĐKG: “ Có thể. Ngày 15 tháng 5, 1975, họ đến nhà tôi, mời tôi đi họp nhưng thật ra là bắt tôi đi luôn từ đó. Lệnh tập trung những sĩ quan Quân lực VNCH vào Tháng 6, họ bắt tôi giữa Tháng 5. Có thể tôi là người đi tù sớm nhất!”
PV Trẻ: “Nhưng khi ấy họ chưa tổ chức kịp những trại tập trung thì họ đưa bác đi giam ở đâu?”
CTTĐKG: “Khám Chí Hoà. Một năm sau họ đưa tôi từ Nhà Tù Chí Hoà đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cũ. Bữa sau nữa, họ đưa tôi ra Bắc.”
PV Trẻ: “Bác tù ở ngoài Bắc 17 năm. Khi trở về Nam, bác thấy miền Nam sau 17 năm kiểu cộng sản “giải phóng” thế nào?”
CTTĐKG: “Tôi không thích tiếng: giải phóng”!
Bác Giai im lặng-hồi tưởng. Mọi người im lặng-chờ đợi. Ở đây chỉ có những người trẻ làm thiện nguyện là đến trung tâm sinh hoạt cao niên này để phục vụ người già. Trong thái độ, ánh mắt, giọng nói của những người lính cũ, tôi cảm nhận được sự kính trọng Tướng Giai của họ như ngày họ còn tấm thẻ bài lính chiến trên ngực. Hình như với những người lính cũ, kỷ luật quân đội vẫn sống trong họ.
Bác Giai nói tiếp: “Hôm đó trong trại tù, một người thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam nói với tôi: “… Trong Quốc ca của các anh có câu: Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…, thì hôm nay chúng tôi đã giải phóng cho các anh rồi! Còn thắc mắc gì nữa!” Tôi nghe anh ta nói câu đó thì tức đến chết được, để rồi tôi nói cho các anh nghe về lịch sử bài quốc ca của Quốc Gia VNCH…”
Cuộc nói chuyện ngưng vì bác Đỗ đến mời vị Cựu Tướng đi ăn cơm, anh Tuấn và tôi được mời cùng ăn với vị Cựu Tướng. Bác Giai chống gậy, đi đứng đã có phần khó khăn, nhưng vẫn đi được một mình. Nhìn bác tự lo cho mình bữa ăn, tôi không biết ngày xưa, cấp Tướng thì có bao nhiêu người phục vụ? Tôi thấy ở ông phong cách tự tại, bình thản của một cụ già người Việt trong Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên. Một chút ngậm ngùi nổi lên trong lòng tôi dù tôi thấy là vô lý. Bác Giai rất an nhiên, tự tại.
Tôi nói với bác Giai: “Hôm qua, cháu nói điện thoại với cô Kiều Mỹ Duyên. Cô gởi lời thăm bác.”
Ông ngồi yên như hồi tưởng lại những người quen biết cũ.
Thấy ông có vể xúc động, tôi hỏi thêm câu nữa: “Ngày xưa, chắc cô Kiều Mỹ Duyên đẹp lắm hả bác?”
Ông cười, nụ cười bí hiểm với ánh mắt trầm mặc sau làn kính cận dày. Nhưng sau đó… ông tỏ ra bớt “quạu”, chắc tâm tư sảng khoái nên ông ăn cơm thấy ngon.
Tôi hỏi: “Cơm ngon không bác? Cháu thấy món thịt kho rất ngon.”
Ông trả lời nhẹ nhàng: “ Ngon hơn cơm tù.”
Trên chiếc bàn trải khăn trắng muốt, đơn sơ, mỗi người một đĩa cơm có thịt kho, cải xào, chén canh đậu hũ trắng nấu với cà chua và thịt bằm. Trước mặt có ly trà, trái chuối để tráng miệng. Một phần ăn trưa rất bình thường ở Mỹ, bình thường đến nỗi người ăn chỉ làm công việc ăn chứ ít ai nghĩ đến ân sủng của Ơn Trên đã ban cho lương thực hàng ngày hay công lao người nấu bữa ăn, hoặc tiền chợ có từ đâu? Nhưng nghe bác Giai vừa ăn vừa nói chuyện, mọi người như mới nhận thức ra giá trị của bữa ăn hàng ngày, bác nói:
“Từ ngày tôi ra tù đến nay, không bao giờ tôi bình phẩm về món ăn.”
Là một phóng viên chuyên thực hiện những cuộc phỏng vấn, nhưng lần này có lẽ là lần thứ nhất tôi không muốn đóng vai trò phóng viên đặt câu hỏi mà chỉ muốn ngồi nghe câu chuyện của một chứng nhân lịch sử, một trong những “Tự điển sống” hiếm hoi còn lại tới bây giờ. Những câu hỏi về lịch sử không phù hợp với không gian, thời gian. Từng câu hỏi như những mũi kim chích vào ung nhọt quá khứ, nó có cái “đã” của một vết thương mưng mủ được tuôn ra, nhưng tiếp theo sau là nỗi buồn vết sẹo không lành sau mỗi câu trả lời của vị Cựu Tướng. Tôi tự thấy mình có lỗi trong những câu hỏi có thể gợi sự bất an, hay không vui trong lòng vị Cựu Tướng nên tôi chuyển sang chuyện khác, may ra cuộc trò chuyện được vui vẻ hơn.
PV Trẻ: “Thưa bác, hiện nay bác đến Trung Tâm này sinh hoạt hàng ngày hay sao?”
CTTĐKG: “Không, một tuần tôi đến đây ba ngày thôi.”
PV Trẻ: “Vậy, những ngày ở nhà thì bác làm gì? Bác đang sống với ai?”
CTTĐKG: “Tôi sống với hai người con trai của tôi, hai con tôi qua đây đã lỡ tuổi, dở dang mọi chuyện nên chúng không lập gia đình. Công việc hàng ngày thì tôi làm được gì thì làm, được tới đâu hay tới đó.”
PV Trẻ: “Bác có thường xuyên liên lạc với bạn hữu và các vị tướng lãnh xưa không ạ?”
CTTĐKG: “ Ít khi. Từ hôm ra tù đã thế. Ngày ra tù, họ cho hay trong nửa ngày phải thu xếp rời trại. Tưởng chuyển trại thôi vì tôi tin là tôi sẽ ở tù tới chết. Không ngờ họ cho về. Tôi với Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 4 người trong 100 người mà họ muốn giam tù cho tới chết. Nhưng nhờ sự đấu tranh của các chiến hữu, các vị đồng hương ở hải ngoại, tạo thành áp lực buộc họ phải thả chúng tôi. Bốn người chúng tôi là đợt cuối cùng trong 8 đợt thả 100 người tù cuối sổ. Lúc đợi xe đưa về Sài Gòn bốn chúng tôi tính với nhau: tôi sẽ được đưa về nhà trước vì là người lớn tuổi nhất trong anh em, kế đến là Trần Bá Di, tới Lê Văn Thân. Lê Minh Đảo trẻ tuổi nhất, sẽ về sau chót. Nhưng khi xe đưa chúng tôi về đến Sài Gòn thì thì những người áp giải chúng tôi làm ngược lại! Lê Minh Đảo được đưa về nhà trước nhất, tôi là người về nhà sau cùng.”
PV Trẻ: “Vậy, bác đúng là người đi tù trước nhất và về nhà sau cùng. Bác có không được vui về chuyện ấy không?”
CTTĐKG: “Từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, sau khi Tổng thống Thiệu và Thủ tướng Khiêm đã rời Sài Gòn thì ngày 28, 29 Tháng Tư, tướng Times bên Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp tôi đưa cả gia đình tôi đi ra nước ngoài. Nhưng tôi quyết định ở lại vì trách nhiệm.”
PV Trẻ: “Bác có ân hận về quyết đnh ở lại đó với 17 năm tù và về sau chót?”
CTTĐKG: “Không. Tôi đã làm tròn trách nhiệm của một Tướng lãnh với Tổ Quốc, với Quân đội, với đồng bào và đồng đội. Qua 17 năm tù tôi vẫn giữ tác phong, danh dự của Quân Lực VNCH. Những người bắt tôi còn đó, họ có thể không thích tôi nhưng họ không có gì để khinh tôi.”
PV Trẻ: “Đối với bên kia, thì đã rõ về tác phong của bác. Nhưng đối với đồng đội, đặc biệt là với các vị Tướng đã bỏ nước ra đi vào những phút chót dầu sôi lửa bỏng, Bác nghĩ gì về họ?”
CTTĐKG: “ Tôi quyết định ở lại vì tôi thấy hành động như vậy là đúng. Nhưng không phải vì vậy mà tôi công kích những người ra đi Tháng Tư năm 1975. Bởi vì trường hợp mất Nam Việt Nam thật đặc biệt, không thể qui trách cho những người cầm súng giữ nước. Các đơn vị quân đội vẫn hiên ngang chiến đấu, chúng ta không hề bỏ chạy trước cộng quân. Quân đội phải buông súng vì lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Do đó, nếu quí vị Tướng có ở lại trong nước thì trước sau các ông cũng vô tù như tôi. Hơn nữa nhờ có một số chiến hữu thoát được ra hải ngoại nên về mặt chính trị mới có cơ hội tranh đấu cứu vãn những người còn kẹt lại.
Về mặt kinh tế, những người đi trước đa số đã thành công trong việc xây dựng được cuộc sống ổn định ở nước ngoài, nhờ đó ta có thể có thể tương trợ lẫn nhau. Bây giờ không nên nói nhiều nữa về chuyện đi hay không đi, đi trước- đi sau, mà mọi người nên, và phải cùng chung lưng xây dựng một lực lượng vững mạnh cả chính trị và kinh tế nơi thế hệ tương lai của người Việt tại hải ngoại.”
PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã cho nghe về lịch sử và những biến động ở Sài Gòn cũng như miền Nam vào những ngày cuối cùng của nền Cộng Hoà. Trong tương lai, bác có suy tư nào để chia sẻ với những người đời sau?”
CTTĐKG: “Những ngày lễ, ngày Tết, đặc biệt là Ngày 30 Tháng Tư hàng năm, đều có những người trẻ tìm đến tôi để hỏi thăm. Tôi cảm ơn nhiều.. Phần các cháu hỏi, thì câu trả lời của tôi còn đó, đến năm sau có thể ta sẽ lại gặp nhau. Các cháu hãy làm đi, làm những gì có thể làm cho quốc gia, dân tộc chúng ta khá hơn, hay hơn.”
PV Trẻ: “Cảm ơn lời chỉ dạy của bác. Xin được chào bác và để bác nghỉ. Xin chúc bác được nhiều sức khoẻ để làm chỗ dựa tinh thần cho lớp trẻ dấn thân vào việc xây dựng tương lai chung của chúng ta. Kính chào bác.”
Khi ngồi nghe chuyện Cựu Tướng Đỗ Kế Giai sau bữa ăn trưa ở Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt cao niên, những câu hỏi tôi đã chuẩn bị để hỏi ông không có cơ hội được tôi nói ra vì dòng hồi tưởng của vị Tướng Già cứ tuôn chảy theo ký ức và tâm cảm của ông. Hai nữa có những chuyện tôi không muốn hỏi sợ làm ông buồn.
Thế rồi bác Đỗ lái xe đưa bác Giai về tư gia. Trongcuộc sống âm thầm nơi viễn xứ, những người lính cũ vẫn sống bên nhau với tình đồng đội ngày nào. Thật đáng kính phục những người Lính Chiến của một Quân Lực oai hùng nay không còn nữa.
Tôi trở về toà soạn, ngồi gõ keyboard viết những dòng chữ này để Tưởng Niệm Tháng Tư 2009 gửi đến quí vị độc giả Tạp Chí Trẻ.
Người viết Phóng Viên Trẻ.
Chuẩn Tướng TRƯƠNG QUANG ÂN
Nguồn tin vừa được loan đi đã làm sửng sốt toàn thể chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là các chiến sĩ thuộc Khu 23 Chiến Thuật. Ðó là tin Chuẩn Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật tử nạn phi cơ cùng phu nhân và phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật sáng ngày chủ nhật 8-9-1968 vừa qua trên đường tới thăm viếng và tưởng thưởng các chiến sĩ đang hành quân tại Ðức Lập.
Nguồn tin trên quả đã gây xúc động trong toàn thể chiến sĩ chúng ta, vì không nhiều thì ít, chúng ta cũng đã được biết về vị Tướng Lãnh vốn nổi tiếng về khả năng và kỷ luật gương mẫu. Chuẩn Tướng Trương Quang Ân siêng năng tận tụy lúc nào cũng một lòng lo tròn nhiệm vụ. Trong thời gian vừa qua, Chuẩn Tướng làm việc không có ngày nghỉ; mặc dầu công việc rất bề bộn, cũng đã dành ngày chủ nhật để cùng phu nhân và phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật đáp máy bay đến vùng Ðức Lập với mục đích theo dõi cuộc hành quân đang diễn tiến và để tưởng thưởng tại chỗ các chiến sĩ xuất sắc.
Bất cứ trận chiến nào tại Khu 23 Chiến Thuật cũng đều có sự hiện diện của Tướng Trương Quang Ân vào lúc sôi động nhất. Ðơn vị nào thuộc Khu 23 Chiến Thuật, hành quân cũng được chính Chuẩn Tướng đích thân tới
tưởng thưởng và uỷ lạo.
Chúng ta hẳn không quên Tướng Trương Quang Ân là một quân nhân hiện dịch, chọn binh nghiệp làm lẽ sống, tốt nghiệp Thủ khoa Khóa 7 Ðà Lạt, về Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, lập những công trạng hiển hách đầu tiên trong đời binh nghiệp với trận đánh lừng lẫy tại bản Hu siu (Lào). Năm 1957, làm Trưởng Phòng Hành Quân của Lữ Ðoàn Nhảy Dù, kế đó là các chức vụ Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù, Tham Mưu Trưởng Lữ Ðoàn, rồi Chiến Ðoàn Trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù. Sau một thời gian làm Tỉnh Trưởng Gia Ðịnh, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 25 Bộ Binh và cuối cùng, năm 1967 làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật.
Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật từ năm 1967, đặc biệt từ Tết Mậu Thân, đã anh dũng đánh tan tất cả nỗ lực tấn công của Cộng quân nhằm chiếm đóng thị trấn của miền Cao nguyên này. Cũng trong suốt thời gian Chuẩn Tướng Trương Quang Ân làm Tư Lệnh, các chiến sĩ Sư Ðoàn 23 Bộ Binh đã tiếp tục tạo lập chiến thắng dồn dập, nêu cao danh dự đơn vị cũng như danh dự của toàn thể Quân Ðội. Tướng Trương Quang Ân được vinh thăng cấp bậc cuối cùng hiện tại vào ngày Quân Lực 19-6-1968 vừa qua, cũng đã được tưởng thưởng 30 huy chương đủ loại kể cả Bảo Quốc Huân Chương.
Suốt trong đời binh nghiệp, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân lúc nào cũng nêu gương sáng về kỷ luật, chỉ biết sống cho Quân Ðội, chết cho Quân Ðội. Chuẩn Tướng cũng là một sĩ quan dũng cảm có tài chỉ huy, thương yêu thuộc cấp và đặc biệt là một trong những chiến sĩ Dù giỏi nhất về môn nhảy tự động chính xác.
Trong tai nạn đau buồn nầy, phu nhân của Chuẩn Tướng cũng tử nạn cùng chồng. Phu nhân nhũ danh là Dương Thị Kim Thanh, nữ Chuẩn uý phục vụ tại Tổng Y Viện Công Hòa và là một trong 7 Nữ Phụ tá đầu tiên trong Quân Lực tốt nghiệp bằng Nhảy Dù. Cả gia đình đều phục vụ Quân Ðội. Cả Chuẩn Tướng và Phu Nhân trong suốt đời binh nghiệp đã nêu gương phục vụ cho tất cả thuộc cấp.
Người chiến sĩ dũng cảm và tận tuỵ, con chim đầu đàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và Khu 23 Chiến Thuật không còn nữa, nhưng tinh thần kỷ luật tuyệt đối và thiện chí phục vụ cao độ của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân sẽ còn là tấm gương sáng mãi mãi cho tất cả chiến sĩ chúng ta. Gắn liền cuộc đời vào binh nghiệp, tuyệt đối tôn trọng kỷ luật, phục vụ Quân Ðội không mỏi mệt, lúc nào cũng nghĩ tới đồng đội và thương yêu thuộc cấp. Ðó là tính chất của một chiến sĩ lý tưởng và là những yếu tố cao quý tạo thành cuộc đời của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân vậy.