tag:blogger.com,1999:blog-15011694689325011212024-02-24T12:45:27.355-08:00Thời Chinh Chiến30.4.2010 Ngày Thương Binh Việt Nam Cộng HòaSQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.comBlogger152125tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-9751704073618216282013-08-31T00:00:00.002-07:002015-04-22T00:43:03.303-07:0030-4-1975<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCXtfYFg47UFRQtsHUsLjST1OxVlUKs8WHmdt-JoztqWPz0mVhneZrGwOi8novEtZ5QhWYcmbVY6vuJU4yTvd1IMDO-g55cwMd0hKu28RkLRNfEiAT8ZN_4yAAINCYjTihyphenhyphen2yfw1-kZ7o/s1600/images.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCXtfYFg47UFRQtsHUsLjST1OxVlUKs8WHmdt-JoztqWPz0mVhneZrGwOi8novEtZ5QhWYcmbVY6vuJU4yTvd1IMDO-g55cwMd0hKu28RkLRNfEiAT8ZN_4yAAINCYjTihyphenhyphen2yfw1-kZ7o/s640/images.jpg" height="640" width="625" /></a></div>
<br />
<br />
SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com8tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-82646887238946603372011-04-21T20:21:00.001-07:002013-03-13T08:26:19.314-07:00Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn<div align="center" class="ecxMsoNormal" style="text-align: center;">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjL1zmepYWnFuzY_O6OHAy6aLw6e-_Sq4KP41GXOjhJo6qAFoeZTtKE0WX2okbI6a4PcmiT6RVt7rAEscd9tXM3B-VWMaH18Oda20ZWyw2dQdEG-SocPWN70qYB558oWFz9tPvqDJx5u60/s1600/fall_of_saigon.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="417px" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjL1zmepYWnFuzY_O6OHAy6aLw6e-_Sq4KP41GXOjhJo6qAFoeZTtKE0WX2okbI6a4PcmiT6RVt7rAEscd9tXM3B-VWMaH18Oda20ZWyw2dQdEG-SocPWN70qYB558oWFz9tPvqDJx5u60/s640/fall_of_saigon.jpg" width="640px" /></a></div>
</div>
<div class="ecxMsoNormal">
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjdRlv6zwqWobLqQtAN9Z89hlVyDKxTgvo7zX5kbyHDfE7lM8Wpv49H1UxJdOAqL6jOCbmupTyuFJK3_jHtvIXtAp55bikJLOlCo-kKF8UhXeV5SyA9KV7jjgX-4PhAfpjL2fdPU30srRk/s1600/P1050553divat30thag4size2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="142px" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjdRlv6zwqWobLqQtAN9Z89hlVyDKxTgvo7zX5kbyHDfE7lM8Wpv49H1UxJdOAqL6jOCbmupTyuFJK3_jHtvIXtAp55bikJLOlCo-kKF8UhXeV5SyA9KV7jjgX-4PhAfpjL2fdPU30srRk/s200/P1050553divat30thag4size2.jpg" width="200px" /></a></div>
</div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> </span><span style="color: maroon;">Mẹ tôi chỉ là một thư ký thường cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30 tháng 4, 1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và Việt cộng đang từ từ tiến vô Sài Gòn, mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá cờ quốc gia, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giổ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt. Lúc đó chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai họa cho gia đình, huống chi là lá cờ quốc gia, nên mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Mẹ tôi nói: "Biết bao nhiêu anh chiến sĩ quốc gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!"</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của Việt cộng. Hết "chiến dịch đổi tiền", "chính sách lương thực, hộ khẩu", đến "chính sách học tập cãi tạo đối với ngụy quân, ngụy quyền", "chiến dịch đánh tư sản mại bản", "chính sách kinh tế mới",.. và nhiều nữa không kể hết. Ai nói Việt cộng ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy họ chỉ vô đạo đức và kém văn hóa, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật cao thâm! Chính sách nào của Việt cộng cũng làm cho người dân miền Nam khốn đốn, dìm sâu con người đến tận bùn đen.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Đầu tiên là "chiến dịch đổi tiền", họ phát cho mổi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mổi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai đươc. Họ tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của Nhà Nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu. Kế đến là "chính sách hộ khẩu", tức là mổi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mổi người (mà họ gọi là "nhân khẩu") được 13 kg lương thực mổi tháng.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, Việt cộng sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm, ...</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">Như vậy là họ đã hình thành một cái chuồng gia súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói. Chính sách này còn cao thâm ở chổ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc "các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà" như Việt cộng đã đĩ miệng, phỉnh phờ người dân trước đây.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">Ba tôi rồi cũng đi tù "cải tạo" như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn trãi một mình để vừa nuôi chồng trong tù vừa nuôi một đàn con dại như vậy không ? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho mẹ tôi và những phụ nữ như mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div align="center" class="ecxMsoNormal" style="text-align: center;">
<span style="font-size: large;"><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
</div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Từ một công chức cạo giấy mẹ tôi trở thành "bà bán chợ trời" (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã "tiến lên" thành một "bà bán vé số, thuốc lá lẻ" đầu đường. Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có "chiến dịch làm sạch lòng, lề đường", công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như mẹ tôi, thì phải đợi qua "chiến dịch" rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Thời bấy giờ, do chính sách "bần cùng hóa nhân dân" của Việt cộng đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một anh bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. Hồi đó, bộ đội Việt cộng giấu, không mang quân hàm nên chẳng biết là cấp nào, chỉ đoán là anh nào trẻ, mặt mày ngố ngố là bộ đội thường, cấp nhỏ, anh nào người lùn tẹt, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt chuột thì có thể là công an hay chính trị viên,...</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Anh bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói: "Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn." Anh bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng: "Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!" À, thì ra những thằng oắt con Việt cộng này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng, giọng của kẻ nhân danh một chính quyền! Lúc này tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà hắn đang mặc được may bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ! Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe: "Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt... Hắn mặc cái quần..., làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hí?". Thì ra mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá cờ quốc gia và điều mà mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Khi Việt cộng mới chiếm miền Nam, nhiều người vẫn tưởng Việt cộng cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đọa đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng Việt cộng xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, họ tự cho họ là phe chiến thắng "vẻ vang" và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể: "Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo cờ quốc gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là cờ quốc gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi!" Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Thời gian trôi mãi không ngừng... Cuối cùng rồi ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù cộng sản, mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống. Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? "Mọi người sinh ra đều bình đẳng .. và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc ..." câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">Một ngày khoãng đầu năm 1990, công an phường đến đưa cho ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của Công An Thành Phố, nội dung vỏn vẹn "đến làm việc". Gia đình tôi lo sợ là ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông "sĩ quan học tập" về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tùy ý.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Rồi ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, công an thành phố kêu ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi được Nhà Nước "nhân đạo" cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết nổi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! Những ngày sau đó lại cũng là mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ "Ra Trại" của ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho "Dịch Vụ", ... để làm thủ tục xuất cảnh.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được. Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, mẹ tôi mới nói: "Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!" </span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, Hoa Kỳ.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam bay phất phới trên mái nhà, mẹ tôi nói: "Ui chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái cờ quốc gia của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?". Rồi mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá cờ quốc gia bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là "Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn" thì mẹ tôi lại viết về lá cờ quốc gia. Ý mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ. Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản). Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: "interesting! ", "Narrative", "I can’t believe it!",... và cuối cùng bà cho một điểm "D" vì... lạc đề!</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
</div>
<div align="center" class="ecxMsoNormal" style="text-align: center;">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"></span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng của Việt cộng trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận, đồng bào đem cả ngàn lá cờ quốc gia, nền vàng ba sọc đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi: "Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!" Ý mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng cờ quốc gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.</span><span style="color: black;"></span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở mẹ tôi đi học ESL nữa nên mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, mẹ tôi nói: "Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hòa bình rồi thì mẹ mới về!" Ý mẹ nói "hòa bình" nghĩa là khi không còn cộng sản nữa. </span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;"> Rồi mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<div class="ecxMsoNormal" style="background-color: yellow;">
<span style="font-size: large;"><span style="background-color: yellow; color: maroon;"> Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tùy thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước,.. Trong một ngăn ví là lá cờ vàng ba sọc đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra mẹ tôi vẫn giữ mãi lá cờ quốc gia bên mình, có lẽ lá cờ vàng hiền lành này đối với mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã khuất.</span></span></div>
<div class="ecxMsoNormal">
<br /></div>
<span style="font-size: large;"><span style="color: maroon;">NGUYỄN KIẾN VIỆT</span></span><br />
<br />
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">
<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihSiKN2oThyJ-EP9utmq9v4rgOXH8Zr3cbdhDnvplMY0FKlbdnWmyk73uWdFbILxH8A_tZf39GIDcCvBJlu0JRp4r9tQL6jtTtgJhvRFjM4XOwhhUsWyE26ckrrMX1pqkFh88d0Krxz1c/s1600/733882_150244938471987_2143883730_n.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihSiKN2oThyJ-EP9utmq9v4rgOXH8Zr3cbdhDnvplMY0FKlbdnWmyk73uWdFbILxH8A_tZf39GIDcCvBJlu0JRp4r9tQL6jtTtgJhvRFjM4XOwhhUsWyE26ckrrMX1pqkFh88d0Krxz1c/s640/733882_150244938471987_2143883730_n.jpg" width="462" /></a></div>
SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-21979896443832556732010-06-16T11:36:00.000-07:002010-12-22T08:18:54.745-08:00Thãm Cảnh Thời Chinh Chiến<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgG7na9paQ2X0WeFVoQ7UU4KjYUt7FGEYUukEdFLYJwD6gaT7ZemiIpLJfVS80dl7NpCZnq4-PgAF4LPJzFBlblnt-8zw1Ho0OF6q2N5M7oByUVRelrLLJnAxtcCAFs_8QpXzwvmBMZPUQ/s1600/woman_children.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="320" qu="true" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgG7na9paQ2X0WeFVoQ7UU4KjYUt7FGEYUukEdFLYJwD6gaT7ZemiIpLJfVS80dl7NpCZnq4-PgAF4LPJzFBlblnt-8zw1Ho0OF6q2N5M7oByUVRelrLLJnAxtcCAFs_8QpXzwvmBMZPUQ/s320/woman_children.jpg" width="266" /></a></div><script language="JavaScript" src="http://pub16.bravenet.com/counter/code.php?id=405502&usernum=1340045908&cpv=2" type="text/javascript">
</script><br />
<div align="center"><br />
</div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com3tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-23403696359816379172010-05-10T16:45:00.000-07:002010-05-11T11:32:22.833-07:0027.4.1975 / Để Tang Cho Miền Nam Việt Nam Bức Tử<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTN8iwERvGlHwyo5HDyi2BuZDMIazTsp1CbzNoRwE80vtvBGDY1I0wsd0yHNtzX4dLce6usaKgOy7XQPSuZvq8r1mbE4uuCGCJoN3iRvblkhyZxurMMXtzTGsZS5VUH7vXmvhIcFuomnI/s1600/27475bieutinhparis7x10.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" height="410" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTN8iwERvGlHwyo5HDyi2BuZDMIazTsp1CbzNoRwE80vtvBGDY1I0wsd0yHNtzX4dLce6usaKgOy7XQPSuZvq8r1mbE4uuCGCJoN3iRvblkhyZxurMMXtzTGsZS5VUH7vXmvhIcFuomnI/s640/27475bieutinhparis7x10.png" tt="true" width="640" /></a></div><br />
<b><span style="color: #660000;">Ngày 27 tháng 4 năm 1975</span></b><br />
<strong>Sinh viên VN .tại Pháp để tang cho miền Nam.</strong><br />
<br />
<br />
<div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Ôi đau đớn tiễn linh hồn Tổ quốc</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Ôm hình hài lá cờ Vàng Ba Sọc</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Chít khăn sô cả dân tộc bịt tang</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Ôi ! Miền Nam nỗi đau xót kinh hoàng</span></div><div style="text-align: center;"><br />
</div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">! Trời !!! Dậy tiếng kêu vang bị BỨC TỬ </span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Biễn đổi màu bao linh hồn viễn xứ</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Trang Quốc sử nhuộm thắm máu hồng tươi</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Chữ Tự do trước mắt đã chết rồi</span></div><div style="text-align: center;"><span style="color: red; font-size: large;">Vành khăn trắng nỗi đau ngày Quốc Hận .</span></div><br />
<span style="font-size: large;">Ngôn Nguyễn Đ.72/SCT</span><br />
<br />
<b><span style="color: #660000;">Xin chuyen den cac ban hinh anh cuoc bieu tinh cua cac sv Viet Nam tai Phap cua 35 nam ve truoc.</span></b><br />
<b><br />
<span style="color: #660000;"></span></b><br />
<b><span style="color: #660000;">Trên đây là một tấm ảnh rất cãm động ghi lại cuộc biểu tình của SV Việt Nam tại Paris ngày 27/4/75, ba ngày trước khi Saigon sụp đổ, lúc đó trong nước chúng ta vẫn chưa biết Đất nước sẽ đi về đâu, nhưng tại Âu châu, nhất là tại Pháp mọi người đã biết số phận của VNCH. Các bạn SV Việt Nam đều đã để tang cho một Dân Tộc, một Đất nước, lá Đại kỳ VNCH đã được rước đi khắp quận 13, thành phố Paris.</span></b><br />
<b><br />
<span style="color: #660000;"></span></b><br />
<b><span style="color: #660000;">Bức ảnh được một anh bạn tốt nghiệp KTS tại Pháp trước 75 scan lại từ một tờ báo Pháp mà anh đã cất giử từ ngày đó, mãi đến hôm nay Phi mới tìm thấy lại xin chia sẽ cùng các ACE nhà Kiến xa gần.</span></b><br />
<b><br />
<span style="color: #660000;"></span></b><br />
<b><span style="color: #660000;">Thân mến,</span></b><br />
<b><span style="color: #660000;">Phi Nguyễn (K-70)</span></b><br />
<br />
<h3 class="post-title entry-title"><a href="http://thoichinhchien.blogspot.com/2009/02/ngay-27-4-1975-tran-chien-tan-cang-sg.html">27.4.1975: Tân Cảng Sàigòn</a> </h3><div class="post-header"></div><div class="post-body entry-content"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg7Y3kIptBt0Dqq27OwdtJCgSmHm7hSBA1VwzHo4QNzCTbQjnc4EEOAyzLZcDuJA7SMsV1Q10250aQIqEpfoUotfRo6gYXDraJDNelPyTTQZRvQsMUb3W5DhLR77nuH6on6gTIEjj4EW-8/s1600-h/t54-2.jpg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5300836584063337602" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg7Y3kIptBt0Dqq27OwdtJCgSmHm7hSBA1VwzHo4QNzCTbQjnc4EEOAyzLZcDuJA7SMsV1Q10250aQIqEpfoUotfRo6gYXDraJDNelPyTTQZRvQsMUb3W5DhLR77nuH6on6gTIEjj4EW-8/s320/t54-2.jpg" style="display: block; height: 230px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 320px;" /></a><br />
<div>*<span style="font-weight: bold;">Cộng quân bị tổn thất nặng trong cuộc tấn công vào khu Tân Cảng Sài Gòn<br />
Sáng ngày 27 tháng 4/1975, tình hình Thủ đô Sài Gòn đã trở nên sôi động khi Cộng quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công CSBV đã tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng bộ chiến của Biệt khu Thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch. Đến chiều ngày 27/4/1975, Cộng quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.<br />
* Kịch chiến tại Bà Rịa, Nhơn Trạch, Trảng Bom<br />
-Rạng sáng ngày 27/4/1975, tại Bà Rịa, lực lượng Nhảy Dù đã quét Cộng quân ra khỏi tỉnh lỵ. Để ngăn chận các đợt tấn công kế tiếp của Cộng quân, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng thêm quân phòng thủ bên ngoài thị xã. Khoảng 8 giờ sáng, Cộng quân điều động hai trung đoàn bộ binh và khoảng 30 chiến xa từ hai hướng mở đợt tấn công thứ 2 vào thị xã Bà Rịa. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã chống trả quyết liệt gây thiệt hại nặng cho Cộng quân.<br />
-Vào 2 giờ chiều ngày 27/4/1975, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù được lệnh rút khỏi Bà Rịa và về phòng thủ tuyến Cỏ May (nằm trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu). Cùng trong buổi chiều ngày 27/4/1975, một đơn vị Công binh Thủy quân Lục chiến được điều động đến để giật sập cầu Cỏ May hầu ngăn chận Cộng quân tràn qua.<br />
-Cũng trong ngày 27/4/1975, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp tiến đến gần liên tỉnh lộ 25 và nhắm quận lỵ Nhơn Trạch, một đơn vị CSBV đánh chiếm các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân dọc trên đường tiến quân. Khu vực Trảng Bom do một đơn vị của Sư đoàn 18BB phụ trách đã bị Cộng quân pháo liên tục.</span></div></div><div class="post-footer-line post-footer-line-1"><span class="post-author vcard">Posted by <span class="fn">SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH</span> </span><span class="post-timestamp">at <a class="timestamp-link" href="http://thoichinhchien.blogspot.com/2009/02/ngay-27-4-1975-tran-chien-tan-cang-sg.html" rel="bookmark" title="permanent link"><abbr class="published" title="2009-02-08T20:52:00-08:00">8:52 PM</abbr></a> </span><span class="reaction-buttons"></span><span class="star-ratings"></span><span class="post-comment-link"></span><span class="post-backlinks post-comment-link"></span><span class="post-icons"><span class="item-control blog-admin pid-43948906"><a href="http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=1501169468932501121&postID=5453314550928088340" title="Edit Post"><img alt="" class="icon-action" height="18" src="http://img2.blogblog.com/img/icon18_edit_allbkg.gif" width="18" /></a><a href="http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=1501169468932501121&postID=5453314550928088340" title="Edit Post"> </a></span></span></div><br />
<h3 class="post-title entry-title"><a href="http://thoichinhchien.blogspot.com/2009/02/27-4-1975-quoc-hoi-hop-khan-bau-tan.html">27.4.1975: Bầu Tân Tổng Thống</a> </h3><div class="post-header"></div><div class="post-body entry-content"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZeu-V3UkEGMBOnW38NKXTa8TD-xitEv1y-8-K-rhFIaXFGL2S38lk48-BmVCRdL60TKJ7wYYx46s4kbQ2gavQJy0VemhTnKQEzL4AgWhgSE4nDOZCnl5bQ-t9o6O3PYVfO0LPbhEWPgo/s1600-h/2389768448_cf03cc5947.jpg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5300833389764200226" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZeu-V3UkEGMBOnW38NKXTa8TD-xitEv1y-8-K-rhFIaXFGL2S38lk48-BmVCRdL60TKJ7wYYx46s4kbQ2gavQJy0VemhTnKQEzL4AgWhgSE4nDOZCnl5bQ-t9o6O3PYVfO0LPbhEWPgo/s320/2389768448_cf03cc5947.jpg" style="display: block; height: 252px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 320px;" /></a><br />
<div><span style="font-weight: bold;">*Quốc hội VNCH họp khẩn xét 2 đề nghị của Tổng thống VNCH Trần Văn Hương về chức vụ Tổng Thống và Thủ tướng VNCH<br />
Sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương đã mở cuộc họp đặc biệt tại tư dinh với thành phần tham dự gồm các ông: Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối cao Pháp viện; Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng viện; Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ Viện ; cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã từ chức từ 23-4-1975), và 1 phụ tá Tư pháp của Tổng thống. Tại cuộc họp này, Tổng thống Trần Văn Hương nhắc lại 2 biện pháp mà ông đã đề nghị trong phiên họp với Quốc hội ngày 26/4/1975:<br />
Thứ 1: Giao cho Tổng thống đương nhiệm toàn quyền chỉ định 1 Thủ tướng toàn quyền.<br />
Thứ 2: Bầu ông Dương Văn Minh làm Tổng thống.<br />
Theo lời kể của Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, trong phiên họp sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương trình bày diễn tiến cuộc họp riêng với ông Dương Văn Minh, và cho biết "ông có mời ông Minh làm Thủ tướng toàn quyền nhưng ông Minh không nhận, mà yêu cầu ông phải từ chức, giao chức vụ Tổng thống cho ông Minh để ông Minh có toàn quyền nói chuyện với Việt Cộng".<br />
Chiều ngày 27 tháng 4/1975, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều Tướng lãnh trong Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến tham dự cuộc họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội. Phái đoàn của Tổng trưởng Quốc phòng đến trước, và khoảng 7 giờ 30 phút tối ngày này thì có 138 nghị sĩ, dân biểu hiện diện. Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn tóm tắt tình hình quân sự: Sài Gòn đang bị bao vây bởi 15 sư đoàn CSBV đặt dưới quyền của ba quân đoàn CSBV. Quốc lộ Sài Gòn-Vũng Tàu bị cắt đứt và CQ đang tiến về Long Bình. Đến 8 giờ 20 ngày 27 tháng 4/1975, Đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận-2 chống) chấp thuận trao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh.<br />
* Cuộc gặp gỡ giưã Tổng thống Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh.<br />
Như đã trình bày, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức vào ngày 21/4/1975, Tòa Đại sứ Pháp đã nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp Tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Ông Brochand đã cho Tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh rằng "Nếu có thương thuyết thì Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi". Ông Brochand cũng cho là ông Dương Văn Minh cần sự hợp của Tướng Trần Văn Đôn.<br />
Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, cựu Đại tướng Dương Văn Minh đã đến gặp Tổng Thống Trần Văn Hương tại tư dinh của Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Trung tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Khiêm để tìm hiểu tình hình, ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ tướng và Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lý thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật trên đã nói là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đã thất bại vì ông Minh từ chối ghế "Thủ tướng toàn quyền".<br />
Trước tình hình như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị cựu Trung tướng Đôn nên nhận chức vụ thủ tướng để thương thuyết. Cựu Tướng Đôn đã kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand là Pháp đã liên lạc với CS Hà Nội và phía CS chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó cựu Trung tướng Đôn đến thẳng Tòa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp sứ quán này lặp lại ý kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27/4/1975, nếu không tiến triển gì thì CQ sẽ pháo kích vào Sài Gòn. Theo lời kể của cựu Trung tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa bãi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để tìm một giải pháp tạm thời. Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho cựu Tướng Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm Thủ tướng. Theo Đại tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể hòa giải được. Cựu Trung tướng Đôn điện thoại báo cho cựu Đại tướng Minh, ông Minh mời cựu Trung tướng Đôn lại nhà để bàn tính tìm một giải pháp.<br />
Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, cựu Trung tướng Đôn vào Dinh Độc Lập thì gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm, từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn phòng Tổng Thống Trần Văn Hương đi ra. Cựu Trung tướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng Thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng ông Martin đã trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho cựu Trung tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào trình bày cho Tổng thống Hương tình hình quân sự: Cộng quân đang tiến sát vòng đai Sài Gòn, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút... Nghe xong phần trình bày, Tổng Thống Hương nhìn Đại tướng Viên và nói: "Ông sẽ Tổng tư lệnh Quân đội". Tổng Thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia xẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ.<br />
Trước khi rời Dinh Độc Lập, cựu Trung tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: "Cụ nghiên cứu lại, vì bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi". 8 giờ tối hôm đó, cựu Trung tướng Đôn trở lại nhà ông Dương Văn Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Cựu Tướng Đôn giải thích với ông Dương Văn Minh: "Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn Hiến pháp, còn Quốc hội." Ý kiến của cựu Trung tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ý, còn ông Minh và ông Mẫu thì cho rằng ông Hương trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.<br />
* TT Nguyễn Văn Thiệu gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn lần cuối cùng<br />
8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ý muốn gặp ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, cựu TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn ở trong dinh này) để nhờ lấy giúp cho bạn của ông một giấy chiếu khán đi ngoại quốc. Khi cựu Trung tướng Đôn vào dinh Độc Lập, cựu Tổng Thống Thiệu cho biết là ông đã hiểu rõ diễn biến. Câu chuyện nửa chừng thì cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và nói: "Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ tướng toàn quyền thì cụ tìm một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Đôn".<br />
Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với ông Đôn: "Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đã biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức...Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đã mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay thì tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc".<br />
Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu TT Thiệu: "Ông có nghĩ là bây giờ đã trễ không?" Ông Thiệu im lặng không đáp. Trước khi từ giã, cựu Trung tướng Đôn nhìn thẳng cựu TT Thiệu, rồi nói: "Còn phần ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu tôi làm Thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đòi bắt ông và tôi làm theo."<br />
Từ biệt cựu TT Thiệu, cựu Trung tướng Đôn ghé nhiều nơi để trao đổi ý kiến với một số yếu nhân và sau đó trở về nhà. Đến nhà, cựu Trung tướng Đôn được biết cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho ông mấy lần và có để lại số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại thì cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giả với cựu Tướng Đôn: "Chúc anh thành công và cám ơn anh." Cựu Tướng Đôn nhắc lại những gì đã nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói: "Ông đừng quên những gì tôi đã nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi." Sau đó, cựu Tướng Đôn được báo là người Mỹ đã giúp cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đình hai vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến Đài Bắc, Thủ đô Đài Loan.</span></div></div><span class="post-author vcard">Posted by <span class="fn">SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCH</span> </span><span class="post-timestamp">at <a class="timestamp-link" href="http://thoichinhchien.blogspot.com/2009/02/27-4-1975-quoc-hoi-hop-khan-bau-tan.html" rel="bookmark" title="permanent link"><abbr class="published" title="2009-02-08T20:51:00-08:00">8:51 PM</abbr></a> </span>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-50615379375308184092010-04-29T11:58:00.000-07:002010-04-29T12:06:13.211-07:0030-4-1975 Biệt Cách Dù / Tổng Tham Mưu<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgImMvH2q_kp0NuBJU99rjMPIICiBANAKayCSwwNX3Y-TZ6d_v56m9OSQq218Dq1CVn2Gwrbr2nxOW7q8yzWCDwrX9q5NjYeEMb_zo-7fV7tG0TXo69SrFmzGCh6JvrQRSrimJPazUxwLk/s1600/PhamChauTaionthejeep.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5465637768477805730" style="DISPLAY: block; MARGIN: 0px auto 10px; WIDTH: 400px; CURSOR: hand; HEIGHT: 300px; TEXT-ALIGN: center" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgImMvH2q_kp0NuBJU99rjMPIICiBANAKayCSwwNX3Y-TZ6d_v56m9OSQq218Dq1CVn2Gwrbr2nxOW7q8yzWCDwrX9q5NjYeEMb_zo-7fV7tG0TXo69SrFmzGCh6JvrQRSrimJPazUxwLk/s400/PhamChauTaionthejeep.jpg" border="0" /></a><br /><div><strong><span style="color:#003300;">Ngày 26 Tháng Tư, Ðại Tá Phan Văn Huấn - chỉ huy trưởng liên đoàn, sau khi nhận lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu, đã ra lệnh cho Thiếu Tá Phạm Châu Tài - chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của liên đoàn, đem toàn bộ cánh quân do Thiếu Tá Tài chỉ huy, gồm một ngàn quân thiện chiến về phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu Tá Phạm Châu Tài chuyển quân xong thì trời đã về chiều.<br />Tại Bộ Tổng Tham Mưu Thiếu Tá Tài được Ðại Tá Tòng chỉ huy trưởng tổng hành dinh Bộ Tổng Tham Mưu đón tiếp niềm nở. Kế đó Ðại Tá Tòng giao việc phòng thủ Bộ Tổng Tham Mưu lại cho Trung Tá Ðức, chỉ huy phó tổng hành dinh phối hợp với quân số tăng phái của Thiếu Tá Phạm Châu Tài. Ðó lần duy nhất Thiếu Tá Phạm Châu Tài được tiếp xúc với Ðại Tá Tòng, sau đó ông đại tá này biến mất cho tới tận bây giờ.<br /><br />Trung Tá Ðức đưa Thiếu Tá Tài đi quan sát chung quanh bức tường thành bao quanh Bộ Tổng Tham Mưu, và đề nghị toàn bộ đơn vị của Thiếu Tá Tài vào nằm trong vòng thành, để cố thủ bên trong vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu.<br /><br />Thiếu Tá Phạm Châu Tài khựng lại trước đề nghị cố thủ bên trong vòng đai. Dường như cả hai vị sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu mà ông tiếp xúc không một ai nắm vững khả năng của lực lượng Biệt Cách Dù, bởi vì cố thủ hay tử thủ gì đó không phải là chiến thuật sở trường của Biệt Cách Dù. Từ Mậu Thân cho đến Mùa Hè 72, Biệt Cách Dù nổi danh nhất là đánh đêm trong thành phố. Những trận đánh tại Ngã Ba Cây Thị, khi địch đã tràn vào trà trộn trong dân chúng, hay đã lẩn vào trú ẩn trong các căn nhà dân chạy loạn bỏ trống.<br /><br />Trong tình hình đó lối đánh sát phạt của Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Ðộng Quân chắc chắn sẽ giải quyết được chiến trường nhưng cũng sẽ làm cho nhà cửa, sinh mạng của dân chúng bị vạ lây không ít. Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù đã dương danh trong những trận đánh này, tiến chiếm từng ngôi nhà, từng con ngõ, từng khu phố... Nếu bỏ toàn đơn vị của Thiếu Tá Tài vào nằm bẹp trong Bộ Tổng Tham Mưu, thì chẳng khác gì nhốt một con chim vào trong một cái lồng hẹp, sẽ bị dụ vào thế phòng thủ hoàn toàn thụ động, không có chỗ xoay trở. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thẳng thắn trình bày ý niệm phòng thủ của ông là tấn công địch trước, và được Trung Tá Ðức đồng ý để Thiếu Tá Tài hoàn toàn tự do bố trí, trải quân của Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù…….<br /><br />Ðêm 26 Tháng Tư qua đi trong yên tĩnh, trọn buổi sáng 27, Thiếu Tá Phạm Châu Tài lo bố trí quân tại những địa điểm cần thiết, để có thể chận đánh, tiêu diệt những chiến xa mở đường của địch quân. Sau khi rải quân xong, Thiếu Tá Phạm Châu Tài được lệnh lên trình diện Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Từ cổng ngoài của Biệt Khu Thủ Ðô, một chiếc xe tuần tiễu Quân Cảnh dẫn đường cho xe của Thiếu Tá Tài đến văn phòng của ông tư lệnh. Trong lúc này Tướng Nguyễn Văn Minh đang bàn thảo với Tướng Ðỗ Kiến Nhiễu, chung quanh hai vị tướng này có vài đại tá. Nhìn thấy Thiếu Tá Tài đi cùng người lính Quân Cảnh, tướng Minh đứng dậy tiến hẳn ra bắt tay rất niềm nở, và nói với Thiếu Tá Tài: “Em về đúng lúc lắm”. Sau một cuộc tiếp xúc ngắn không đầy mười phút, Tướng Minh yêu cầu Thiếu Tá Tài qua thăm phối hợp với Ðại Tá Châu Văn Tiên - Tỉnh Trưởng Gia Ðịnh. Nhiều năm sau này Thiếu Tá Tài được biết, ngay sau buổi hội kiến ngắn ngủi đó (ngày 27 Tháng Tư), trung tướng tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô biến mất. …..<br /><br />Ngày 27 Tháng Tư rồi cũng qua đi, nhìn chung không khí Sài Gòn cực kỳ sôi động. Vì phải đôn đốc binh sĩ dưới quyền, nằm rải rác chung quanh Bộ Tổng Tham Mưu, trong ngày 27 Tháng Tư, có đôi lần Thiếu Tá Phạm Châu Tài ghé ngang cổng Phi Long của phi trường. Ông nhìn thấy những đoàn người tìm cách chạy trốn ra ngoại quốc qua ngả phi trường. Không mấy hứng thú trước cảnh này, Thiếu Tá Phạm Châu Tài quay về với các binh sĩ của ông.Trong đêm 27 Tháng Tư, ông cảm nhận được bầu không khí thoi thóp không phải chỉ của Sài Gòn mà thôi. Những tiếng động ầm ì từ phi trường Tân Sơn Nhất, những tiếng súng đại bác bắn đi từ Phú Lâm vọng về, thỉnh thoảng những ánh đèn nhấp nháy của những chiếc máy bay đơn lẻ vụt qua trên nền trời tối sẫm.<br /><br />Sáng ngày 28 Tháng Tư, trong lúc đang thị sát binh sĩ tại những ổ kháng cự, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được điện thoại của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, tự xưng là Ðại Úy X (đã quá lâu nên Thiếu Tá Phạm Châu Tài quên mất tên của vị sĩ quan này). Qua điện thoại vị sĩ quan này lớn tiếng:<br /><br />- Tôi báo động cho thiếu tá biết, thằng Cao Văn Viên đã bỏ đi rồi.<br /><br />Thiếu Tá Phạm Châu Tài ôn tồn nói với vị sĩ quan này:<br /><br />- Ðại úy không nên dùng những ngôn ngữ đó. Dù sao Ðại Tướng Viên cũng là tổng tham mưu trưởng của toàn thể quân đội, và việc bỏ đi của Ðại Tướng Cao Văn Viên thuộc về lịch sử. Ðể lịch sử sau này sẽ phán đoán việc làm của đại tướng. Tôi sẽ tới Phòng 3 ngay bây giờ, chuyện đâu còn có đó.<br /><br />Khi Thiếu Tá Phạm Châu Tài quay trở lại Bộ Tổng Tham Mưu, ông không gặp vị sĩ quan đã gọi điện thoại cho ông. Hầu như Phòng 3 trống trơn, Thiếu Tá Tài không còn tin vào cặp mắt của mình. Xe cộ chạy dọc ngang, các sĩ quan cao cấp có xe Jeep chở đầy đồ đoàn trên xe. Người ta chạy tứ tung, kêu gọi nhau ơi ới. Nhìn ra ngoài cổng chính cũng như cổng phụ của Bộ Tổng Tham Mưu người ta ra vào lũ lượt. Vẫn còn những toán lính Quân Cảnh mang sắc phục hành sự tại hai điếm canh, song hình như họ cũng đứng đó bất lực như Thiếu Tá Phạm Châu Tài.<br /><br />Trong buổi sáng 28 Tháng Tư tại Bộ Tổng Tham Mưu, văn phòng của Ðại Tướng Cao Văn Viên trống trơn. Các phòng, ban của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ vài tháng trước nhộn nhịp kẻ ra người vào, quân nhân các cấp ra vào áo quần thẳng tắp, giờ đây sáng ngày 28, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy cơ quan đầu não của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vắng lặng như tờ. Ông chua chát nhận chân được thế nào là một đoàn quân không có tướng cầm đầu. Ông nghiệm lại từ lúc về trình diện tăng phái về trấn cửa cho Bộ Tổng Tham Mưu, được Ðại Tá Tòng - Chỉ huy trưởng tổng hành dinh, tiếp vào lúc xế chiều của ngày 26 Tháng Tư, tới bây giờ là 10 giờ sáng của ngày 28 Tháng Tư, chưa một lần nào Thiếu Tá Tài nhìn thấy bóng dáng ông Ðại Tướng Cao Văn Viên.<br /><br />Không hiểu trong những giờ phút thập tử nhất sinh như thế này, ông đại tướng ở đâu, làm gì. Ngay cả ông Ðại Tá Tòng cũng biến mất không thấy tăm hơi. Trong sân Bộ Tổng Tham Mưu, quân nhân các cấp người chạy lên, kẻ chạy xuống như là những quân đèn cù. Xe Jeep, xe Dodge phun khói mờ trời đất. Nhiều chiếc xe còn kéo theo cả móc hậu, bên trong đầy đồ đạc, dụng cụ. Ai nấy đều như mê sảng. Trong hoàn cảnh đó, Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho dù muốn xin một cái lệnh của cấp trên, cũng sẽ không tìm ra một sĩ quan cao cấp nào để ban hành lệnh.<br /><br />Khoảng 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Tư, Thiếu Tá Phạm Châu Tài gọi điện thoại liên lạc với Ðại Tá Phan Văn Huấn, lúc đó đang đóng quân ở Suối Máu - Biên Hòa, để trình bày tình hình ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trong khoảng hai, ba tiếng đồng hồ liền Bộ Tổng Tham Mưu như là cảnh tan chợ chiều. Vào khoảng 3 giờ chiều, Ðại Tá Phan Văn Huấn đích thân lái xe từ Suối Máu về gặp Thiếu Tá Phạm Châu Tài, thì tình hình ở Bộ Tổng Tham Mưu đã dịu xuống, những ai muốn TAN HÀNG khi chưa có lệnh TAN HÀNG đã không còn hiện diện tại đơn vị. Hai vị chỉ huy của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù trao đổi với nhau vài câu ngắn ngủi, rồi chia tay để mỗi người quay về với nhiệm vụ của mình.<br /><br />Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 Tháng Tư, trong lúc Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang đứng trên nóc một cao ốc gần Bộ Tổng Tham Mưu, nơi bố trí của một toán Biệt Cách Dù thì thấy một phi đội A37 bay vụt qua trên đầu, Thiếu Tá Tài nghĩ là phi cơ của Không Quân đi oanh tạc ở đâu về. Bốn chiếc A37 bay thật thấp xẹt qua các nóc cao ốc, rồi hướng về phía phi trường Tân Sơn Nhất. Thế rồi Thiếu Tá Tài thấy những cụm lửa, khói bốc lên ở phi trường. Té ra không phải là máy bay của phe ta mà là phi cơ địch bỏ bom xuống phi trường. Phản ứng đầu tiên của Thiếu Tá Tài là ra lệnh cho binh sĩ của ông phòng thủ trên các cao ốc chĩa hết súng, kể cả súng cá nhân lên trời đểbắn hạ các phi cơ này, nếu chúng quay lại bỏ bom vào Bộ Tổng Tham Mưu là nơi mà ông chịu trách nhiệm phòng thủ. Tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút, chỉ một pass bom, song phi đạo chính của phi trường Tân Sơn Nhất đã bị hư hại nặng.<br /><br />Mãi mấy tiếng đồng hồ sau, qua làn sóng của đài phát thanh Việt Cộng, Thiếu Tá Phạm Châu Tài mới biết được mấy chiếc A37 đó là của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, bị bỏ laị ngoài Trung khi các đơn vị ở đó triệt thoái xuống phía Nam. Các phi cơ này do tên Cộng Sản Nguyễn Thành Trung hướng dẫn, bay từ phi trường Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất.<br /><br />Sau khi Ðại Tá Thăng nhận nhiệm vụ, lệnh đầu tiên và có lẽ cũng là lệnh duy nhất của ông ban ra trong tư cách Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh là kể từ giờ không một ai được phép ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu, còn người vào, thì có lẽ trong giờ thứ 25 này, mấy ai còn nghĩ đến việc quay trở lại một địa điểm sắp làm mồi cho lửa đạn. Sau khi phi trường bị mấy chiếc A37 bỏ bom bất ngờ, vào khoảng 6 giờ chiều, Tướng Nguyễn Văn Chức từ Bộ Tổng Tham Mưu lái xe Jeep ra ngoài, bị lính Quân Cảnh chặn lại, nhưng ông Chức vẫn muốn lái xe ra ngoài, thấy vậy các binh sĩ Biệt Cách D ù can thiệp, và yêu cầu Tướng Chức quay trở lại. Suốt đêm 28, tiếng súng lớn nhỏ ở khắp nơi vọng về, song tại khu vực phòng thủ của Thiếu Tá Phạm Châu Tài tình hình lắng dịu.<br /><br />Ngày 29 Tháng Tư, Bộ Tổng Tham Mưu đã có một tổng tham mưu trưởng khác: Trung Tướng Vĩnh Lộc. Vì Tướng Cao Văn Viên đã chuồn, cho nên không hề có lễ bàn giao giữa hai ông tân và cựu tổng tham mưu trưởng. Dầu sao thì sự hiện diện của một ông tướng cũng vãn hồi phần nào bộ mặt của Bộ Tổng Tham Mưu, khiến cho cơ quan đầu não này có một chút sinh khí. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy một số tướng lãnh khác cũng tới cùng với khá nhiều sĩ quan cấp đại tá.<br /><br />Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư, Tướng Vĩnh Lộc và một số tướng lãnh hội họp với nhau ngay tại phòng khánh tiết của tổng tham mưu trưởng. Buổi họp giống như một buổi tiếp tân nhiều hơn là một cuộc họp trong tình thế cực kỳ khẩn trương. Hầu như không một vị sĩ quan nào ngồi trên ghế, có tới vài chục vị đứng quây quần với nhau thành nhiều nhóm. Thiếu Tá Phạm Châu Tài được gọi lên tương kiến trong buổi họp kỳ lạ này.<br /><br />Cùng đi với Thiếu Tá Tài là bốn người lính cận vệ, và cả Thiếu Tá Tài ai nấy đều trang bị vũ khí khắp người. Thiếu Tá Tài được giới thiệu như là một người hùng. Ông ghi nhận được trong buổi họp này ngoài Trung Tướng Vĩnh Lộc, tân tổng tham mưu trưởng còn có sự hiện diện của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, và một chuẩn tướng nữa có bảng tên là Hỷ (không có họ) và sau cùng có chừng mười mấy vị phần lớn là đại tá. Sau khi được các sĩ quan cao cấp bắt tay khích lệ, Thiếu Tá Tài được Trung Tướng Có hỏi thăm về tình trạng đơn vị, và nhắn nhủ:<br /><br />- Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu cho tới sáng ngày mai. Ráng giữ nguyên vẹn cho tới ngày mai. Ðã có giải pháp.<br /><br />Thiếu Tá Phạm Châu Tài ngửng mặt lên nhìn thẳng vào mắt các tướng lãnh trong phòng họp rồi bằng một thái độ quả quyết, một giọng nói tự tin trả lời cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có:<br /><br />- Tôi xin cam đoan với quý vị tướng lãnh và các vị sĩ quan trong phòng họp này, là trong đêm nay sẽ không có một con kiến, một con ruồi nào lọt được vào Bộ Tổng Tham Mưu chứ đừng nói tới một thằng Việt Cộng.<br /><br />Ðêm 29 Tháng Tư súng nổ ở nhiều nơi vọng về chỗ đóng quân của Thiếu Tá Tài. Binh sĩ dưới quyền ông chạm súng lẻ tẻ với địch ở nhiều nơi, nhưng các đứa con được bung ra không bị một thiệt hại nhỏ nhoi nào. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cảm nhận được một điều là tinh thần chiến đấu cũng như hàng ngũ của đơn vị ông vô cùng vững chãi. Cho dù trên cái vòm chỉ huy của quân đội, các ngôi sao cứ tuần tự băng trong bóng tối của trận chiến sau cùng. Ông vững lòng với binh sĩ thuộc hạ, không hề có một ổ kháng cự nào bị bỏ ngỏ.<br /><br />Tờ mờ sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, Cộng Quân tiến vào Sài Gòn qua nhiều ngả. Thiếu Tá Phạm Châu Tài thầm nhủ với mình là giờ phút cuối cùng đã điểm. Ông liên lạc với các thuộc cấp, dặn dò họ những khẩu lệnh cuối. Qua các máy truyền tin, ông biết bộ binh của Cộng Sản đã được các xe tăng dẫn đầu bứng các chốt kháng cự một cách nhanh chóng. Phía trước của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, những khóa sinh chưa kịp ra trường đã tiến ra mặt trận, mà mặt trận đâu có xa xôi gì. Bên ngoài vòng đai trung tâm huấn luyện chính là nơi trận chiến cuối cùng đang diễn ra. Thế những những người lính chưa kịp ra lò này đã có một bài thực tập tốt về chống chiến xa. Hai chiến xa của địch đã bị bắn hạ tại đây, thế nhưng những chiếc khác vẫn cứ thẳng đường tiến về Sài Gòn. Núp theo sau những chiến xa này, là những chiếc xe vận tải chuyển quân, trên đó chất đầy những cán binh Cộng Sản, với quần áo còn có lá cây ngụy trang trên nón.<br /><br />Tới Ngã Tư Bảy Hiền, cánh quân này bắt đầu đụng độvới Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật Số 3 của liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy, và bị bắn hạ một chiếc dẫn đầu tại Ngã Tư Bảy Hiền. Những chiếc sau vẫn tuần tự tiến tới, thậm chí Cộng Quân cũng không hề ngừng lại phản công tại những địa điểm có ổ kháng cự của những người lính cuối cùng. Cánh quân này lướt qua để tiến về trung tâm thủ đô. Các binh sĩ Biệt Cách Dù vừa đánh vừa rút theo với đà tiến của địch. Hai chiếc tăng khác của Cộng Quân bị bắn hạ ở cổng Phi Long, một chiếc bị bắn hạ ở Lăng Cha Cả. Và bây giờ thì Cộng Quân đã có mặt tại vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu. Hai chiếc tăng nữa bị hạ ngay gần cổng Bộ Tổng Tham Mưu. Các binh sĩ Biệt Cách Dù cũng đã rút về, tập họp khá đầy đủ chung quanh cấp chỉ huy của họ, và tuyến phòng thủ cuối cùng cũng đã thiết lập xong. Mấy trăm người lính hờm súng về phía trước, mắt căng ra chờ địch quân tiến vào.<br /><br />Vào khoảng hơn 9 giờ sáng của ngày 30 Tháng Tư 1975, qua tần số của máy truyền tin, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nhận được lệnh của một sĩ quan Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu ngưng bắn. Ông đã khước từ tuân hành lệnh này, và trả lời cho vị sĩ quan này là ông chỉ nhận lệnh trực tiếp với ông Tổng Tham Mưu Trưởng mà thôi. Những người lính Biệt Cách Dù vẫn giữ nguyên vị trí phòng thủ trong vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu.<br /><br />Vào khoảng mười giờ, Thiếu Tá Phạm Châu Tài nghe trên đài phát thanh truyền đi lệnh của Ðại Tướng Dương Văn Minh, yêu cầu tất cả quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng. Thiếu Tá Tài bỏ phòng tuyến trở vào một văn phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, đích thân gọi điện thoại lên Dinh Ðộc Lập và được Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tự nhận là quyền tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tá Phạm Châu Tài cho biết là bây giờ ông muốn được nói chuyện với Ðại Tướng Dương Văn Minh, vị tổng tư lệnh tối cao của quân đội.<br /><br />Khoảng chừng 15 phút chờ đợi dài như một thế kỷ, bên kia đâu dây điện thoại mới nghe giọng nói của Ðại Tướng Dương Văn Minh cất lên:<br />- Ðại Tướng Dương Văn Minh tôi nghe.<br />- Thưa đại tướng, tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài đang chỉ huy Biệt Cách Dù phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi được ủy thác phòng thủ tại đây cho tới khi có giải pháp cuối cùng. Cách đây một giờ chúng tôi được lệnh ngưng bắn gọi qua máy siêu tần số, và vừa mới rồi được nghe lệnh của đại tướng trên đài phát thanh kêu gọi ngưng bắn. Chúng tôi xin hỏi lại cho rõ về ngưng bắn là thế nào.<br /><br />Sau một khắc ngần ngừ, Ðại Tướng Minh nói:<br />- Mình không còn một cái gì để đánh cả.<br />Em chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia<br />- Thưa đại tướng, thế có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện.<br /><br />Ðầu dây bên kia lại một phút im lặng nặng nề trôi qua, Thiếu Tá Tài nói tiếp vào điện thoại:<br />- Thưa đại tướng, chúng tôi được lệnh là cố thủ tại đây, và từ sáng tới giờ chúng tôi đã ngăn chặn được các mũi tấn công của địch. Chúng tôi đã bắn cháy 6 chiếc tăng của Cộng Sản trong khu vực này, mà không hề hấn gì cả. Thưa đại tướng, chúng ta không thể đầu hàng được. Công lao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong bao nhiêu năm sẽ...<br />- Tùy các em.<br />- Thưa đại tướng, nếu đầu hàng đại tướng có bảo đảm cho sinh mạng của hai ngàn người đang tử thủ tại Bộ Tổng Tham Mưu không.<br /><br />Lại một phút nặng nề nữa trôi qua.<br /><br />Sau cùng Tướng Minh nói:<br />- Xe tăng của địch quân sắp tiến vào đây.<br />Tùy các em.<br /><br />Và rồi điện thoại bị cúp.<br /><br />Thiếu Tá Phạm Châu Tài buông điện thoại xuống, quay trở lại với phòng tuyến của mình. Ông đã đi qua những hành lang rộng, những văn phòng khang trang của Bộ Tổng Tham Mưu, song ông không bắt gặp một tướng lãnh nào, một sĩ quan cao cấp nào. Khi nghe câu nói cuối cùng của Ðại Tướng Dương Văn Minh cho biết là xe tăng của Cộng quân đang sắp tới Dinh Ðộc Lập, Thiếu Tá Tài đã định trình bày cho Ðại Tướng Minh biết, là nếu cần ông sẽ mang quân về cứu đại tướng, vì không thể đầu hàng vô điều kiện được, mà phải có một giải pháp nào đó cho quân đội, cho những người lính.<br /><br />Quay trở ra phòng tuyến của mình, Thiếu Tá Phạm Châu Tài thấy toàn thể đơn vị của ông vẫn còn súng lăm lăm trong tay, mắt hướng ra ngoài chờ địch quân tiến tới.<br /><br />Ðúng vào lúc đó thì tiếng Ðại Tướng Dương Văn Minh lại vang lên trên làn sóng phát thanh. Bây giờ không phải là lệnh ngưng chiến tại chỗ, chờ bên kia BÀN GIAO, mà lệnh ÐẦU HÀNG VÔ ÐIỀU KIỆN.Các cánh quân Cộng Sản từ xa vẫn tiếp tục xít chặt vòng vây quanh Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng dường như súng thì đã ngưng nổ, và tất cả chìm trong một sự im lặng ngột ngạt.Khoảng 15 phút sau dân chúng cư ngụ ở gần Bộ Tổng Tham Mưu kêu gọi rối rít:<br />- Các ông ơi, đừng đánh nhau nữa. Hòa bình rồi. Ði về nhà đi thôi.<br /><br />Dân chúng ùa tới mang rất nhiều quần áo dân sự, đặc biệt là những áo thun, đưa cho các binh sĩ Biệt Cách Dù:<br />- Thôi đừng mặc quân phục nữa, thay đồ đi.<br />Thiếu Tá Phạm Châu Tài tập họp binh sĩ dưới quyền lần chót. Ông không còn ra lệnh cho thuộc hạ nữa, mà nói với những người anh em không may mắn của ông một lần cuối cùng:<br /><br />- Chúng ta là Biệt Cách Dù, không có vụ đầu hàng. Thôi tan hàng, và lặn cho kỹ. Không có vụ đầu hàng... Biệt Cách Dù không thể đầu hàng...</span></strong></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-18859654483107818972010-04-23T08:27:00.000-07:002011-04-21T20:25:12.931-07:0030.4.1975 Tiếng Khóc Hờn Ai Oán<div align="center"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5gtbhoZ-ARq9tk5WS2q0OwcBFE_bIupy1X_R1EZLnfavXZYjcRz4mk-qMH9jE0M5JqQNozkDKFRfT3zKB6GqUoY-RuYR3BOF2kzdUWn82v-VM9y1aCs5wxq9vdskM138JlN7Lv8XbkkE/s1600-h/phamthangvu140408-1.jpeg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5300320787641484322" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5gtbhoZ-ARq9tk5WS2q0OwcBFE_bIupy1X_R1EZLnfavXZYjcRz4mk-qMH9jE0M5JqQNozkDKFRfT3zKB6GqUoY-RuYR3BOF2kzdUWn82v-VM9y1aCs5wxq9vdskM138JlN7Lv8XbkkE/s320/phamthangvu140408-1.jpeg" style="cursor: hand; display: block; height: 213px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 320px;" /></a><b><span style="color: red; font-size: 130%;"> Tiếng ai oán hờn căm trong gió</span></b></div><div align="center"><b><span style="color: red; font-size: 130%;">Một tấc quê hương, một tấc người.</span></b></div><div align="left"><br />
<b>Tôi đang đứng trên một bờ ruộng cạnh quốc lộ 1 hướng về Tây Ninh. Phía sau tôi là cây cầu cũng mang tên là cầu Bông trùng tên với cây cầu trong khu Đa Kao của thành phố Sài gòn. Cây cầu này là mốc địa giới giữa quận Hốc Môn của tỉnh Gia Định và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa. Trên các thửa ruộng sau hàng cây Trâm bầu thấp thoáng những chiếc xe tank M 113, M 48 mà binh sĩ Sư đoàn 25 Bộ binh đã bỏ lại sau khi tan hàng tập thể trong hơn tháng trước. Trí óc của một thanh niên mới vừa 18 tuổi tôi và Trí người em con cậu háo hức rảo bước vào các chiếc xe này. Trèo vào các chiếc xe tăng mà nghĩ về hình ảnh những người lính đã từng ngồi tại đây trong các chiến trận. Súng đạn vẫn còn nguyên trong xe và trên các bờ ruộng.<br />
<br />
Là dân sống ở Sài gòn tôi theo mẹ về dưới vùng Hốc Môn này để tìm mua ruộng đất làm ăn trong buổi giao thời thay vì chờ nhà nước CS đưa đi vùng kinh tế mới. Có tiếng lên đạn. Tôi nhìn chung quanh và thấy vài thanh niên khác cũng chạc tuổi tôi đang cầm một cây M 16 trên tay. Một thanh niên đang chỉ dẫn cho bạn mình cách sử dụng cây súng rồi tiếng bấm cò, tiếng kim hoả mổ vào chỗ trống. Súng không có gắn đạn. Lập lại các động tác đó vài lần rồi họ vất cây súng đó trên bờ ruộng, kéo nhau đi.<br />
<br />
Trí nói với tôi: Mình ráng kiếm xem coi có cây Côn nào không. Trí óc thanh niên ai cũng thích sở hữu một súng lục trong tay nhưng chúng tôi lục tìm trong các chiếc xe nhà binh này mà không tìm được cây súng Côn nào cả. Chúng tôi đi trở ra ngoài đường lộ. Một phụ nữ mặc áo trắng đang lui cui nhặt tìm một cái gì đó gần lề đường. Tiến lại gần người phụ nữ này. Bà đang xem từng tấm thẻ Căn cước quân nhân, Thẻ bài kim khí, Thẻ giấy lãnh lương của lính...nằm vương vãi trên đường và các cạnh bờ ruộng. Mắt người phụ nữ này đỏ hoe. Tôi hỏi :<br />
<br />
- Dì kiếm gì vậy hả dì?<br />
<br />
Nhìn chúng tôi, người phụ nữ trả lời: Chị xem coi có giấy tờ của anh ấy không? Chiến tranh chấm dứt rồi mà không thấy ảnh về. Thì ra chồng người phụ nữ này là một chiến binh Biệt động quân tăng phái chiến đấu trong khu vực Hốc Môn-Thành Ông Năm này trong những này cuối của chiến. Rồi nhìn chúng tôi, người phụ nữ kể :<br />
<br />
- Ảnh tên Tia, Nguyễn văn Tia... Các em có thấy tấm thẻ bài hoặc giấy tờ nào tên Nguyễn văn Tia thì đưa cho chị nha. Rồi lầm bẩm: Anh Tia ơi! Anh ở đâu sao không về. Một mình em với các con biết làm cái gì bây giờ đây hả anh? Chúng tôi đi dọc theo các bờ ruông này. Dưới ngay một trụ điện ven đường, một hố cá nhân đã được ai đó lấp vội nhưng vẩn còn thấy các mảnh thân xác của một tử sĩ nằm bên dưới. Chúng tôi vội lùi xa khi luồng gió đồng từ đâu thổi đến làm bốc lên mùi tử thi bị rữa. Nằm không xa, một nấm đất mà ngay phía trên đầu là một cây súng M 16 cắm ngập xuống đất với chiếc mũ sắt lính chụp trên báng súng. Hình ảnh nấm mồ với cây súng này y chang trong một cảnh phim chiến tranh lúc tàn cuộc. Có tiếng người phụ nữ khi nãy gọi chúng tôi. Chúng tôi quay lại. Tôi nhìn khuôn mặt bà. Một phụ nữ miền Nam tuổi khoảng 40. Vẻ nhẫn nại chịu đựng với chút thoáng buồn của người vợ lính làm tôi tự dưng có cảm tình với bà. Bà hỏi chúng tôi :<br />
<br />
- Các em có biết lính còn đóng quân ở đâu nữa không? Các em có nghe có thấy nơi nào trong vùng này lính quốc gia vẫn còn chiến đấu chưa ra hàng không? Chỉ cho chị biết đi.<br />
<br />
Trí trả lời: Lính hay đóng trong khu rừng Điều lắm... Mà khi đó chứ bây giờ chắc không còn ai nữa đâu dì ơi.<br />
<br />
Mắt người phụ nữ sáng lên, nhìn Trí, miệng lắp bắp hỏi dồn: Rừng Điều! Lính đóng ở đó hả? Cách đây bao xa? Làm sao đi vào đó được? Hay là em vào đó tìm anh Tia giúp chị đi. Chị gửi tiền cho em ngay bây giờ. Đi ngay đi em, giúp chị đi mà. Tội nghiệp chị.<br />
<br />
Rồi người phụ nữ khóc nhìn chúng tôi. Tôi nhìn thằng Trí dò hỏi. Nó im lặng chốc lát rồi lắc đầu nói:<br />
<br />
- Không còn ai trong đó nữa đâu dì ơi ! Cháu biết rõ như vậy với lại muốn đi vào đó phải có xuồng chứ lội bộ sình lầy không được.<br />
<br />
Người phụ nữ mắt đỏ hoe vẫn cứ nài nỉ thằng Trí giúp rồi thấy không được bà quay qua nắm tay tôi van nài:<br />
<br />
- Giúp chị nha em. Tôi nghiệp chị mà. Chị đâu có biết đường đi vào đó đâu.<br />
<br />
Tự nhiên nước mắt bắt đầu rỉ ra từ mắt tôi. Tôi nói với bà:<br />
<br />
- Dì ơi! cháu ở Sài gòn mới về đây có ít ngày hà. Cháu cũng không biết chỗ đó đâu. Nếu biết thì... nhưng chưa nói hết câu thì thằng Trí đã kéo tôi đi chỗ khác. Đi một quãng khá xa nó nói:<br />
<br />
- Anh đừng nhận lời giúp bả. Làm sao mà đi vào đó được. Gần hai tháng giải phóng rồi, không còn lính nào sống ở trong đó hết. Em biết rõ như vậy.<br />
<br />
Tôi quay đầu nhìn lại, người phụ nữ tay vẫn vẫy chúng tôi trong tiếng khóc.<br />
<br />
Tiếp tục đi dọc theo trên đường. Đằng trước mặt có một chiến xa M 113 nằm sát bên rặng cây Bình bát ngay gần vệ đường. Tôi và Trí tiến lại. Nhìn qua cửa mở toang phía sau, chiến xa này có nguyên cả một cây súng Cối khá lớn còn nằm trong lòng xe. Tôi định trèo vào xe thì mũi ngửi một mùi xác chết. Nhìn kỹ một thi hài lính chiến nằm ngay trên sàn xe sát cạnh chân đế của cây súng Cối. Tiếng ruồi vo ve gần bên. Không có dấu vết đạn nào trên thân xe tăng. Như vậy, người chiến binh miền Nam VNCH này chắc chắn đã tự sát chết.<br />
<br />
Bỏ chiếc xe tăng, chúng tôi trèo lên cây cầu nhỏ tiến vào một con rạch thông thương với con kênh chính sát gần mặt đường. Dọc theo con rạch này, những bụi hoa Sim dại tím sẫm đung đưa theo gió chiều. Có cái gì nổi lùm xùm trong các bụi Năng. Chúng tôi tiến lại xem. Một xác người đang trong giai đoạn rữa nát. Kinh quá! Chúng tôi đi tiếp để thấy thêm vài xác chết nổi dập dềnh đây đó. Những người này là thường dân. Chắc chắn như vậy vì họ mặc thường phục. Hầu hết là đàn ông nhưng cũng có xác của phụ nữ nữa. Trí kéo tay tôi chỉ về một cái xác nổi gần bờ hai tay bị trói chặt. Bước chồm sát tới để xem cái xác, chân thằng Trí đạp vào vài viên đất trên bờ làm chúng lăn tòm xuống nước. Nghe động, một đàn cá Rô bơi ra từ dưới bụng của xác người này . Trên lưng áo trắng bỏ vào quần vẫn còn dấu những vết đạn, máu loang lổ. Họ là ai và bị ai giết?<br />
<br />
Rồi tôi thấy ở khá xa tuốt trong phía sâu có bóng hai người đang lui cui làm cái gì khuất sau các hàng cây Dứa dại cạnh bờ rạch. Tôi và Trí tiến lại. Một người phụ nữ và một cô gái tuổi thiếu niên đang cúi đầu đọc kinh lâm râm. Một tờ báo trải ngay trên mặt đất với ít bánh ngọt trên đó. Vài cây nhang đang cháy khói nghi ngút cắm gần một dép nhựa loại có dây quai gót phía chân trái. Tôi nhìn xuống con rạch. Xác một người đàn ông áo sọc ca rô nổi phình trên các bụi cây Năn-Lác mà chân phải vẫn còn mang dép. Tôi và Trí đứng yên lặng trong chốc lát rồi quay ra. Gió đồng mang mùi xác chết đến mũi chúng tôi. Một cái mùi đặc biệt không lẫn vào đâu được. Sau lưng tôi bây giờ là tiếng khóc than của hai mẹ con người này. Tôi nhìn cảnh vật chung quanh. Đồng quê buổi chiều thật êm ả. Vài cánh cò trắng bay chập chờn xa xa như trong các câu chuyện, hình ảnh về các cảnh đồng quê yên bình. Nhìn ra phía đường lộ, vài chiếc xe hai bánh, xe đò vẫn bình thản chạy qua. Không ai biết trên đường, người đi tìm tung tích chồng mình và trong con rạch này, người đang khóc than cho số phận của thân nhân mình. Hết chiến tranh mà sao vẫn mầu thê lương tại đây?<br />
<br />
Trời đã chiều trên cánh đồng tàn cuộc chiến. Tiếng gió bây giờ thổi mạnh, rít từng cơn qua các cành cây kẽ lá như lời đang than van của các quả phụ miền Nam VNCH bại trận.<br />
<br />
Tiếng ai oán hờn căm trong gió<br />
Một tấc quê hương, một tấc người.<br />
<br />
Viết để tưởng nhớ ngày 30-4-1975.<br />
Phạm thắng Vũ<br />
</b><br />
<embed allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" fs="1&" height="385" src="http://www.youtube.com/v/xQa5_WgZ8Gw&hl=" type="application/x-shockwave-flash" width="480"></embed> </div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-60511508211045273452010-04-20T18:26:00.002-07:002012-04-05T19:03:25.974-07:00Cuộc di tản nhân đạo<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjtfUjkiW3WRWnhm63M_rAjeIrkw4c3FSgGIS_AwEfw-T5WIinGwWL0nXPIRz4gLOzxybZphAdNDjbI6QhSxSu8KjOHp6IYY1MZ9aRP4peP-VdLN9bXUMjVEC1qVhByszFJT6cHoF2oyzk/s1600/111685-big_KimLan00a.jpg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5462396195490480802" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjtfUjkiW3WRWnhm63M_rAjeIrkw4c3FSgGIS_AwEfw-T5WIinGwWL0nXPIRz4gLOzxybZphAdNDjbI6QhSxSu8KjOHp6IYY1MZ9aRP4peP-VdLN9bXUMjVEC1qVhByszFJT6cHoF2oyzk/s400/111685-big_KimLan00a.jpg" style="display: block; height: 400px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 299px;" /></a><br />
<div><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5M8o5oqHY0p-2QlMjrT97EQQn1i4LkBtXBhLs-RN-dNcHToHWVa1HR5gfGWWPMKFRppiflDTAyp7usXyprKymMIn1mTfyp94kQ5QWhq8Xpce3RANtchwzapirUGmw5FDgqUFPoXK55pM/s1600/111685-big_KimLan01a.jpg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5462396139340828354" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5M8o5oqHY0p-2QlMjrT97EQQn1i4LkBtXBhLs-RN-dNcHToHWVa1HR5gfGWWPMKFRppiflDTAyp7usXyprKymMIn1mTfyp94kQ5QWhq8Xpce3RANtchwzapirUGmw5FDgqUFPoXK55pM/s400/111685-big_KimLan01a.jpg" style="display: block; height: 199px; margin: 0px auto 10px; text-align: center; width: 300px;" /></a><br />
<div></div></div><br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Đỗ Văn Phúc<br />
<br />
Ba mươi năm trước đây, nước Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử do sự tráo trở thất hứa của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Một trong nhiều nguyên nhân chính là ác ý của bọn nhà báo vô lương tâm đã xuyên tạc, bôi đen tình hình chính trị và quân sự tại miền Nam để làm cho dư luận phản chiến Hoa Kỳ rầm rộ phản đối và mạt sát chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, dẫn đến sự biểu quyết của lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ đi từ cắt giảm viện trợ cho đến khi chém nhát dao cuối cùng chí tử vào chính phủ và nhân dân miền Nam.<br />
<br />
Người còn sống mà còn bị bôi nhọ và vô phương chống đỡ. Nói chi đến người đã chết thì không còn cơ hội nào để biện minh. May mà những thập niên vừa qua, nhiều nỗ lực đã được thực hiện do các cựu tướng lãnh và các chính khách Hoa Kỳ vì bị thôi thúc bởi lương tâm mà đã lên tiếng để trả lại sự thật cho lịch sử; trong đó có vấn đề vãn hồi danh dự cho chính phủ và quân lực VNCH. Nhiều chính khách, quân nhân, nhà báo Việt Nam cũng hết lòng đóng góp vào nỗ lực trên qua hàng trăm bài báo, tài liệu, sách vở, và những bài tham luận đọc trước các hội nghị quốc tế về Viêt Nam. Tuy quá muộn màng, nhưng ít ra cũng giúp cho công luận thế giới thấy được chính nghĩa của miền Nam và sự man trá hung tàn của chế độ Cộng Sản để góp phần nào vào cuộc đấu tranh cho Tự do dân chủ tại Việt Nam hiện nay.<br />
<br />
Mới đây, nhân nhớ lại ngày tang thương 30-4, nhiều người đã luôn dịp nhắc nhở đến kỷ niệm 35 năm ngày di tản hàng trăm trẻ em mồ côi do Hoa Kỳ tổ chức trong chiến dịch Baby Lift vào những ngày rối ren đen tối cuối cùng trước khi mất miền Nam. Trên tờ báo Người Việt Tây Bắc ngày 13 tháng 4, 2010 có đăng một bài của cô Hà Giang phỏng vấn bà Betty Tisdale về cuộc di tản nhân đạo này (Cô Hà Giang là phóng viên báo Người Việt tại Nam Cali, nên có lẽ bài viết này đã được đăng trên Người Việt).<br />
<br />
Bà Tisdale năm nay 87 tuổi, là phụ nữ can đảm và nhân ái đã đóng vai trò rất quan trọng trong kế hoạch di tản được 216 trong số khoảng 400 trẻ em của Viện Mồ Côi An Lạc vào ngày 12 tháng 4, năm 1975.<br />
<br />
Tất cả những chi tiết trong đời bà Tisdale đều nói lên tấm lòng nhân ái bao la của người phụ nữ Mỹ Betty Tisdale đã có mặt ở Sài Gòn trong những ngày nguy hiểm nhất để thực hiện một việc mà phóng viên Hà Giang gọi là vô tiền khoáng hậu vì bà cho rằng:”Chỉ biết là tôi không thể để cho các em sống trong thế giới vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản!”.<br />
<br />
Tuy nhiên, khi nói về việc xin phép cho các em mồ côi được di tản, bà Tisdale đã kể lại rằng bà đem danh sách các em lên trình Bộ Xã Hội VNCH để xin phép. Tại đây, theo lời bà thì Bác Sĩ Phan Quang Đán, Thứ Trưởng Bộ Xã Hội đã nói:<br />
<br />
“Chúng tôi sẽ cố thủ, chúng tôi không thể bỏ cuộc. Chúng tôi không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mười tuổi ở lại để giúp đánh trận.Tôi rất tiếc là không thể để cho các em đi được. Đó là quyết định của chính phủ tôi.”<br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">(trích nguyên văn theo bài viết của Hà Giang)</span><br />
<br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Gần cuối bài phỏng vấn, bà lại nhắc câu nói của Bác Sĩ Phan Quang Đán một lần nữa:</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">“Tôi đã ra đi, bỏ lại gần hai trăm đứa con mình đã săn sóc cả mười bốn năm trời.Và lời nói của Thứ Trưởng Phan Quang Đán mãi cứ vang trong tai tôi. ‘Chúng tôi sẽ cố thủ. Chúng tôi không thể bỏ cuộc.Chúng tôi không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mười tuổi ở lại để giúp đánh trận.’”</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Điều này làm chúng tôi vô cùng ngỡ ngàng. Hơn hai mươi năm chiến tranh, có những giai đoạn thật tàn khốc, và khó khăn về tài nguyên nhân lực, chính phủ miền Nam chưa hề phải xử dụng đến các thiếu niên để cầm súng; trong khi đối phương chúng ta là phe Cộng Sản đã phải tuyển mộ nhiều thiếu niên mười lăm mười sáu. Hoặc trong các khu Việt Cộng kiểm soát, ngay các em bé 7, 8 tuổi và các cụ già gần đất xa trời cũng được huấn luyện để ném lựu đạn hay bắn súng. Sự khác biệt giữa chúng ta và đối phương là một bên là một xã hội văn minh, thượng tôn pháp luật, biết tôn trọng luân thường đạo lý, và một bên kia là xã hội man rợ, chỉ biết dùng bất cứ phương tiện nào cho mục đích của họ mà thôi. Chính sách của các chính phủ miền Nam rất rõ ràng, chỉ động viên thanh niên trên 18 tuổi mà thôi. Trong thực tế, có nhiều trường hợp các em 16, 17 vì ham đời binh nghiệp, đã làm giấy khai sinh giả để đầu quân. Nhưng nếu quân đội phát giác ra hay do cha mẹ khiếu nại, các em đều được trả về với gia đình.</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Để tìm hiểu sự thực về câu nói trên của cố BS Phan Quang Đán, ký giả LC của báo Chính Nghĩa (Atlanta) cùng chúng tôi gọi điện thoại đến bà Tisdale để tìm hiểu cho rõ vấn đề, thì được bà hứa sẽ trả lời nếu gửi bằng email cho bà. Bà đã cho chúng tôi địa chỉ email. Qua ngày thứ Ba 20-4-2010, chúng tôi không nhận hồi đáp, nên đã gọi điện thoại lần nữa. Lần này, bà đã than rằng bà quá già nên không nhớ hết mọi chuyện. Bà nói với chúng tôi “Nếu thấy sai gì thì xin cứ sửa!”</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Thật khó xử cho chúng tôi. Làm sao chúng tôi có quyền sửa lại những điều do chính bà đã nói ra?</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Vì thế, chúng tôi cũng có thể đặt vài giả thuyết. Hoặc bà đã không nhớ rõ, nên nói những điều không chính xác. Hoặc ký giả Hà Giang đã nghe lầm hay dịch từ lời của bà Tisdale qua Việt ngữ thiếu chính xác.</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Chúng ta kính phục và biết ơn nghĩa cử của bà Tisdale. Nhưng chúng ta khó chấp nhận được một lời nói xúc phạm đến danh dự của một chính phủ, một chế độ Cộng Hoà, dù nó không còn hiện hữu. Chúng ta đã từng tả xung hữu đột để xoá tan những dư luận độc ác của truyền thông và phản chiến Hoa Kỳ; dĩ nhiên chúng ta sẽ rất đau lòng khi thấy sự ngộ nhận từ một phụ nữ mà nhiều người trong chúng ta khâm phục và biết ơn.</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Chúng tôi mong rằng các tổ chức Cộng Đồng, các đoàn thể Quốc gia nên tìm hiểu thật kỹ và cùng lên tiếng về sự việc này. Chúng tôi không rõ cụ Phan Quang Đán hiện còn sống hay đã qua đời. Vì cụ là người đầu tiên có thể minh chính lời nói trên để gỡ oan cho chính phủ VNCH. Nếu chẳng may, cụ không còn trên thế gian này, thì chúng ta sẽ xin bà Tisdale vì lương tâm trong sáng mà có lời đính chính vậy. Chúng tôi trân trọng đề nghị ký giả Hà Giang của báo Người Việt nên tiếp xúc với Bà Betty Tisdale và cho cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản được rõ thực chất của vấn đề.</span><br />
<br />
<span style="color: #990000; font-style: italic;">Đỗ Văn Phúc </span></span>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-51939653011747542422010-04-11T23:14:00.001-07:002010-04-26T18:03:36.117-07:00Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến<div class="separator" style="CLEAR: both; TEXT-ALIGN: center"><br /><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhRrdy827DitoFp3PW_MyTxrsh8AIkhrJcui784XkoGOb1e1TMzq-7Qlc5om2LJViHWsE5btVWkkEqK1Byvo9fs4vSBsDNipbsZfwyxYJwGw88wNopCfQ56c95T8DpWX7bcQZ0LeTrOks/s1600/IMG_0616.JPG" imageanchor="1"><img height="427" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhRrdy827DitoFp3PW_MyTxrsh8AIkhrJcui784XkoGOb1e1TMzq-7Qlc5om2LJViHWsE5btVWkkEqK1Byvo9fs4vSBsDNipbsZfwyxYJwGw88wNopCfQ56c95T8DpWX7bcQZ0LeTrOks/s640/IMG_0616.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgl3hP5zndvlIukeZzPDaEks7-lGs7Wfo7uJ-2rgDDUaeEy2dy6Yp1wi4Sa0bqmT27YvR_GoOvl_5GNdhoPDekfHqK3tUkexFGY8xwzLO8J4_Jd89vQaVn_iKGjVPA0bQ_DOWMWqsAdoDI/s1600/IMG_0618.JPG" imageanchor="1"><img height="267" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgl3hP5zndvlIukeZzPDaEks7-lGs7Wfo7uJ-2rgDDUaeEy2dy6Yp1wi4Sa0bqmT27YvR_GoOvl_5GNdhoPDekfHqK3tUkexFGY8xwzLO8J4_Jd89vQaVn_iKGjVPA0bQ_DOWMWqsAdoDI/s400/IMG_0618.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJWGM7QCfjooHikevOmpwrftsyiOww23kglmC1lH7VjoWVptrhvJvYoFJ_JdUyP1i3TSz-mHPOFquDwcfIDyXLz4N-dSOB6lC5fjZHZfxGrjDhI3CJ66AFn3La-T4u-W-21m7Fa3u5GH0/s1600/IMG_0620.JPG" imageanchor="1"><img height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJWGM7QCfjooHikevOmpwrftsyiOww23kglmC1lH7VjoWVptrhvJvYoFJ_JdUyP1i3TSz-mHPOFquDwcfIDyXLz4N-dSOB6lC5fjZHZfxGrjDhI3CJ66AFn3La-T4u-W-21m7Fa3u5GH0/s400/IMG_0620.JPG" width="266" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgct18yOiJGHRPOdlg-sbaIns59lx-s6qRoWe__FE7Nxevq8CLihxnT6IpftFppaFS-1543D5D3uJr9KIags1YAbmx1Yt9u40X49QjOkx0x0eYD0uyMtHBy7sP6q1VhEK488VD46YTBoF4/s1600/IMG_0617.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgct18yOiJGHRPOdlg-sbaIns59lx-s6qRoWe__FE7Nxevq8CLihxnT6IpftFppaFS-1543D5D3uJr9KIags1YAbmx1Yt9u40X49QjOkx0x0eYD0uyMtHBy7sP6q1VhEK488VD46YTBoF4/s640/IMG_0617.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyEb6h4IADo85_R6O6btPPUpuaZNTwXH2xuZiYJGvO1XA1sQcISrWEmTTqMMcnHrqIvCWK40YO57mQhWtkKUwd_sGpfGd6lhfvs-11k0t-0Dk8-PDujYanCkZ96TJcVoMokkISx4iuyzs/s1600/IMG_0631.JPG" imageanchor="1"><img height="267" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjyEb6h4IADo85_R6O6btPPUpuaZNTwXH2xuZiYJGvO1XA1sQcISrWEmTTqMMcnHrqIvCWK40YO57mQhWtkKUwd_sGpfGd6lhfvs-11k0t-0Dk8-PDujYanCkZ96TJcVoMokkISx4iuyzs/s400/IMG_0631.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg-dWjkdaoegLHY5u7TcafCu_YFmrV1gLPAy5RQ_GMRYJtpP_Veo-h3C381xlmiFGDVD9ToGG4X-4gFn9AQyc_XatHpE4ZtNAJeHevtWMZcCbk2yu_yhqmtxf-B0_P71VLut-74n9j17zo/s1600/IMG_0626.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg-dWjkdaoegLHY5u7TcafCu_YFmrV1gLPAy5RQ_GMRYJtpP_Veo-h3C381xlmiFGDVD9ToGG4X-4gFn9AQyc_XatHpE4ZtNAJeHevtWMZcCbk2yu_yhqmtxf-B0_P71VLut-74n9j17zo/s640/IMG_0626.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgITTF1BHaDTfYQ6umFPgsXtpnQC-1Ax74_EWOPWN0JArVljnuMFckc62tpJtb3UJzF2pMycT5qURRx8SG9mnXKUsq_56FC9mGoskL3nEE7AgErg1IldhjkNMPHx4sdFD1K8pdnS8FTp9w/s1600/IMG_0622.JPG" imageanchor="1"><img height="212" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgITTF1BHaDTfYQ6umFPgsXtpnQC-1Ax74_EWOPWN0JArVljnuMFckc62tpJtb3UJzF2pMycT5qURRx8SG9mnXKUsq_56FC9mGoskL3nEE7AgErg1IldhjkNMPHx4sdFD1K8pdnS8FTp9w/s320/IMG_0622.JPG" width="320" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgUhIJzVGmL5uPTl5cCQu2bUx4VOdC6iAgRNucbWQ7IPsfVD_4X0P35z3KVeI8sJKY_8W-BSAFSUEtYyf0XQ_KPYG0CagjLN2NN6nbC7GhQmh7tXfVbHCPf42j_m0txyb4aOne_YEIlD1c/s1600/IMG_0623.JPG" imageanchor="1"><img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgUhIJzVGmL5uPTl5cCQu2bUx4VOdC6iAgRNucbWQ7IPsfVD_4X0P35z3KVeI8sJKY_8W-BSAFSUEtYyf0XQ_KPYG0CagjLN2NN6nbC7GhQmh7tXfVbHCPf42j_m0txyb4aOne_YEIlD1c/s320/IMG_0623.JPG" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhS4HQRE54SR3b__hrWWdWA3uO-oOoqGop0PrLdGmvMrf7UgC-7jrjr2U-jp6RwNnGTz7hnjrzPv-gi16eh8S49uKJ7Va2QUHYE8FQAUPyS4AMIxD38MSL0UIHdxldDhtyVFnZBERI3xQ/s1600/IMG_0632.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhhS4HQRE54SR3b__hrWWdWA3uO-oOoqGop0PrLdGmvMrf7UgC-7jrjr2U-jp6RwNnGTz7hnjrzPv-gi16eh8S49uKJ7Va2QUHYE8FQAUPyS4AMIxD38MSL0UIHdxldDhtyVFnZBERI3xQ/s640/IMG_0632.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQSW1_1cAHcHACmS0aeZC2SHw4IuX0GOHh8E2j2NBoY1-k8ahoU_vfNo7yf95JuSWt1YnxhAI1Y4-tRjA6sTM9rhEbWoisCUSQofYIe7W4GKkoXyxNRhDhUJu1XXEKXDT-CGpFfRcueG8/s1600/IMG_0635.JPG" imageanchor="1"><img height="267" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQSW1_1cAHcHACmS0aeZC2SHw4IuX0GOHh8E2j2NBoY1-k8ahoU_vfNo7yf95JuSWt1YnxhAI1Y4-tRjA6sTM9rhEbWoisCUSQofYIe7W4GKkoXyxNRhDhUJu1XXEKXDT-CGpFfRcueG8/s400/IMG_0635.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiBzfL_pfwdalTvIfKtmMbmTKMzLZn6VUTx0mCCglGACbDxoj-stuL3G4smeSU202vXrbU1XxntKANzqiJDRt3SgdcpgtpJO-o62bxgc_X3ZrZV58oUxFwYnYW23ZPfuHOVIVwVmeQoS6I/s1600/IMG_0638.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiBzfL_pfwdalTvIfKtmMbmTKMzLZn6VUTx0mCCglGACbDxoj-stuL3G4smeSU202vXrbU1XxntKANzqiJDRt3SgdcpgtpJO-o62bxgc_X3ZrZV58oUxFwYnYW23ZPfuHOVIVwVmeQoS6I/s640/IMG_0638.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1CMe7-SlZWkxv8ZT5rAjmq-c04cn3v-bg-AeHFzPPJfkdMwA-FDxHge7ZfCkJ9h-N3IqIvamGOn_uSq87kj2YTgr96TNL1OTc_FdHZwiSSN6DCP6tE-g9GksRc8EGXDqj5yg8aW6uc5A/s1600/IMG_0639.JPG" imageanchor="1"><img height="427" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1CMe7-SlZWkxv8ZT5rAjmq-c04cn3v-bg-AeHFzPPJfkdMwA-FDxHge7ZfCkJ9h-N3IqIvamGOn_uSq87kj2YTgr96TNL1OTc_FdHZwiSSN6DCP6tE-g9GksRc8EGXDqj5yg8aW6uc5A/s640/IMG_0639.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr4tQFpz6yS_DPrNdDtSXMl8DJq0h_VQfoenz4K3DAwB92lCe5K4EekxmsjZFnNxoPyVkrEWHsq7jYkptusolHwMMf4EisBAss6ufKa2e3EeqyloAZYeEMRi_N56ngw1eGUZSFEJHjFB8/s1600/IMG_0648.JPG" imageanchor="1"><img height="306" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr4tQFpz6yS_DPrNdDtSXMl8DJq0h_VQfoenz4K3DAwB92lCe5K4EekxmsjZFnNxoPyVkrEWHsq7jYkptusolHwMMf4EisBAss6ufKa2e3EeqyloAZYeEMRi_N56ngw1eGUZSFEJHjFB8/s320/IMG_0648.JPG" width="320" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg73zWc9I0sqcOmb1FuEfH4GW9sbXXR2a7iDJm-chb6BdsVVphhzi3D_-CTJ3YVJuWq2LyuehJOnrxNqKqegLEW80Oo2EvfKzvdi-SlpvDoU_ctzvprwN0sgqeDQozB4aQPisV0FHzvGtI/s1600/IMG_0647.JPG" imageanchor="1"><img height="214" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg73zWc9I0sqcOmb1FuEfH4GW9sbXXR2a7iDJm-chb6BdsVVphhzi3D_-CTJ3YVJuWq2LyuehJOnrxNqKqegLEW80Oo2EvfKzvdi-SlpvDoU_ctzvprwN0sgqeDQozB4aQPisV0FHzvGtI/s320/IMG_0647.JPG" width="320" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIAZ3xmq4kLZddUhXqqClklz8BBY7b6n2UzCfEyKjXHivX91kPT30FeqCIDkPyC3bJn20nnW036K4qUDYZzsZ3OLPzV1SxaiEWqGqW5Z27rWo7-rS6hYvm_x8x1YsM4pwSSqX_Gawj3jk/s1600/IMG_0646.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIAZ3xmq4kLZddUhXqqClklz8BBY7b6n2UzCfEyKjXHivX91kPT30FeqCIDkPyC3bJn20nnW036K4qUDYZzsZ3OLPzV1SxaiEWqGqW5Z27rWo7-rS6hYvm_x8x1YsM4pwSSqX_Gawj3jk/s640/IMG_0646.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhbcfdEk091zGV7HxnAecchcd1s0jTp1C_rMiuwqAF1fWN7npkDo_2_BXqASmqfF3N4QCnlG2duCno3u-vBcp44rYpS2rDO1BKzbQ2Hbu8WZEKu_L6HxtLfMGNaQnHcOzEKhrTFB-_sriQ/s1600/IMG_0649.JPG" imageanchor="1"><img height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhbcfdEk091zGV7HxnAecchcd1s0jTp1C_rMiuwqAF1fWN7npkDo_2_BXqASmqfF3N4QCnlG2duCno3u-vBcp44rYpS2rDO1BKzbQ2Hbu8WZEKu_L6HxtLfMGNaQnHcOzEKhrTFB-_sriQ/s320/IMG_0649.JPG" width="214" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsMZkcY9TBcyl8DonBzgfIyDjVflDE2iuwH0D3GynnDOzTAm0q5Ncb0pMI4JU38xKDvghIRi1tI1rWFnX5qek9XXjp2srcLgMIxjW6t-ABoJxBKNVHx0X0MPdLTxpZ4mhAj5VXfVYGC_s/s1600/IMG_0650.JPG" imageanchor="1"><img src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjsMZkcY9TBcyl8DonBzgfIyDjVflDE2iuwH0D3GynnDOzTAm0q5Ncb0pMI4JU38xKDvghIRi1tI1rWFnX5qek9XXjp2srcLgMIxjW6t-ABoJxBKNVHx0X0MPdLTxpZ4mhAj5VXfVYGC_s/s320/IMG_0650.JPG" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQJ8evcVWlk5z9Prjpa8ORopWWmzVHpSGUevDe88CWSPv8SU-RjIZN1hgaTEsL8ZjuwFL2bid05eVwu1NJFWfsj91njGRMDoB9qcFou_EJGDuOd5uPodJhUdaP2AWqBHvXhdGouTFyY34/s1600/IMG_0651.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgQJ8evcVWlk5z9Prjpa8ORopWWmzVHpSGUevDe88CWSPv8SU-RjIZN1hgaTEsL8ZjuwFL2bid05eVwu1NJFWfsj91njGRMDoB9qcFou_EJGDuOd5uPodJhUdaP2AWqBHvXhdGouTFyY34/s640/IMG_0651.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2IcAiIW8jchSVjFwaAVYzzqkmHsJMvjV5IGmwhZsgI-dwqFHofLWhlzJqpfu15kt4EYwP4QtxUnN9ZH0blQb35YPnXBT7aJRGkArb1c2axeQ-RTZu6ipB0MkPs6yBh0hZO2goTVp7LGY/s1600/IMG_0652.JPG" imageanchor="1"><img height="267" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2IcAiIW8jchSVjFwaAVYzzqkmHsJMvjV5IGmwhZsgI-dwqFHofLWhlzJqpfu15kt4EYwP4QtxUnN9ZH0blQb35YPnXBT7aJRGkArb1c2axeQ-RTZu6ipB0MkPs6yBh0hZO2goTVp7LGY/s400/IMG_0652.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg9I1G9NFaf2eZWy5x4f2Ue7fJ4HO0WCphqxem_Rd16hyACj8qwgBLKxlSeDtVMLC6SqJG9KIhlToq__kodaHwflJTK8OY-Dww1FHtY64r9Tbl-cp1NJJHyE9pXnainivROi7-NclfN8cg/s1600/IMG_0659.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg9I1G9NFaf2eZWy5x4f2Ue7fJ4HO0WCphqxem_Rd16hyACj8qwgBLKxlSeDtVMLC6SqJG9KIhlToq__kodaHwflJTK8OY-Dww1FHtY64r9Tbl-cp1NJJHyE9pXnainivROi7-NclfN8cg/s640/IMG_0659.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgmeiH0_UXeqv03_nx6LtxgDjgBrPsrJ3KWXtjNvruXKh3tZr31K7C2Db9gr166HLctfcYlPHx_fhxQkliRDadaA0ufs6KoEW9gTZpFtclHZ5-2h6quWFYxd4Az-YxZuUVV8i_N2X268Hg/s1600/IMG_0661.JPG" imageanchor="1"><img height="226" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgmeiH0_UXeqv03_nx6LtxgDjgBrPsrJ3KWXtjNvruXKh3tZr31K7C2Db9gr166HLctfcYlPHx_fhxQkliRDadaA0ufs6KoEW9gTZpFtclHZ5-2h6quWFYxd4Az-YxZuUVV8i_N2X268Hg/s400/IMG_0661.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgd36VdJ97W9I62x2jFPY2QBaDmRJ4qO3BhDTTb3PzXTEVzTLnHCH_AggI5JuNBCSWyrh_ohQKLHVFtA3R0Mg7ZeveQa8BJ5N4U2utar3Jxyu63WRZx_uPzz8JodHZ0x0xn38TvLKMLVTs/s1600/IMG_0657.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgd36VdJ97W9I62x2jFPY2QBaDmRJ4qO3BhDTTb3PzXTEVzTLnHCH_AggI5JuNBCSWyrh_ohQKLHVFtA3R0Mg7ZeveQa8BJ5N4U2utar3Jxyu63WRZx_uPzz8JodHZ0x0xn38TvLKMLVTs/s640/IMG_0657.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6VWgot6wfl61fhxG0sIcv8VfI5ynL6Ezfm5FipviCD-pqTIJ5h1701Q_MnqTRDCAJJ5IFGI5ZZ-F0rKmZAk4ZPpVoTfEgVz6mUnCcHu8Er8nkNf2jL1ZIhtF_ARp1USyuSTAeAQeJupk/s1600/IMG_0670.JPG" imageanchor="1"><img height="464" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6VWgot6wfl61fhxG0sIcv8VfI5ynL6Ezfm5FipviCD-pqTIJ5h1701Q_MnqTRDCAJJ5IFGI5ZZ-F0rKmZAk4ZPpVoTfEgVz6mUnCcHu8Er8nkNf2jL1ZIhtF_ARp1USyuSTAeAQeJupk/s640/IMG_0670.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiOV3xjCvXAc58t9bOw7wYs9UDJlQJ_s5c0w54uW0pGXch42J9fJ__BiRYPDZ49c_GKcMpZ-HoP1ug7CVSYDXAxZOuOt9L_KvwPGwQJgiK2HNhxUhursdbHbPni-12HjCMztcBVPu1eVR4/s1600/IMG_0666.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiOV3xjCvXAc58t9bOw7wYs9UDJlQJ_s5c0w54uW0pGXch42J9fJ__BiRYPDZ49c_GKcMpZ-HoP1ug7CVSYDXAxZOuOt9L_KvwPGwQJgiK2HNhxUhursdbHbPni-12HjCMztcBVPu1eVR4/s640/IMG_0666.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj6FHL7cPPKpnAwqZzxTY7tqlOUS48rWm8OKwrCwZPkNpb5Qj0x6aXokO6uYdI1MC7E0Ky0LzxO4eBuddsyX2QpPgTcwSyR9cJ6tpDMQQ0pDA5sCUA3rhdyezD1E_dUf2V1ouwFOhf_dZI/s1600/IMG_0663.JPG" imageanchor="1"><img height="162" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj6FHL7cPPKpnAwqZzxTY7tqlOUS48rWm8OKwrCwZPkNpb5Qj0x6aXokO6uYdI1MC7E0Ky0LzxO4eBuddsyX2QpPgTcwSyR9cJ6tpDMQQ0pDA5sCUA3rhdyezD1E_dUf2V1ouwFOhf_dZI/s400/IMG_0663.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLGC_LlsRLHDOkeYb8dvTFVKP0JJpZd8dLF0mRmqtA_YpfULvqmpnXfAkmF-yG2OeujdZjWSFqDdzADQnaYaXjFTbZxo3xenbZpEQyRqNd0ZKn_YQ2erKFh2fKZNVnLqKAot6QECeLSZ4/s1600/IMG_0667.JPG" imageanchor="1"><img height="428" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLGC_LlsRLHDOkeYb8dvTFVKP0JJpZd8dLF0mRmqtA_YpfULvqmpnXfAkmF-yG2OeujdZjWSFqDdzADQnaYaXjFTbZxo3xenbZpEQyRqNd0ZKn_YQ2erKFh2fKZNVnLqKAot6QECeLSZ4/s640/IMG_0667.JPG" width="640" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEipRchWrYW_UOpSUrCcc7yida20qkvMhRkk2V7nWcwS4A3Ge43YwT9SD6oyq5SPnXlE1U2SjmSh_qWl7IXilip9dBezTxC5IU8WU6WdfQUGQoI1CsQm62stNsgGM6ckYKap1w6taxTzDtc/s1600/IMG_0665.JPG" imageanchor="1"><img height="267" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEipRchWrYW_UOpSUrCcc7yida20qkvMhRkk2V7nWcwS4A3Ge43YwT9SD6oyq5SPnXlE1U2SjmSh_qWl7IXilip9dBezTxC5IU8WU6WdfQUGQoI1CsQm62stNsgGM6ckYKap1w6taxTzDtc/s400/IMG_0665.JPG" width="400" border="0" /></a><a style="MARGIN-LEFT: 1em; MARGIN-RIGHT: 1em" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgj5vshrdu2_xtPOR3sn29-ueiYbVK1-r4HFzjXnJFjejp9GwyjDgPMo7e6pXaGgF7cCwmCL50eOcrAYxr3LySRcMj_oR41uBSqCVnCQ_uVvww2_4COifIRy3PZEOTwR__ODqwL2SVVJY8/s1600/IMG_0671.JPG" imageanchor="1"><img height="468" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgj5vshrdu2_xtPOR3sn29-ueiYbVK1-r4HFzjXnJFjejp9GwyjDgPMo7e6pXaGgF7cCwmCL50eOcrAYxr3LySRcMj_oR41uBSqCVnCQ_uVvww2_4COifIRy3PZEOTwR__ODqwL2SVVJY8/s640/IMG_0671.JPG" width="640" border="0" /></a></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-14934427455958333132010-04-11T22:28:00.000-07:002010-04-19T08:49:42.580-07:00Một phụ nữ Mỹ cưu mang 216 cô nhi Việt<table cellspacing="0" cellpadding="2" width="100%" border="0"><tbody><tr><td width="100%"><span style="font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:100%;"><b></b></span><span style="font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:100%;">Sunday, April 11, 2010 </span><!-- AddThis Button BEGIN --><script src="http://s7.addthis.com/js/250/addthis_widget.js?pub=quangp" type="text/javascript"></script><!-- AddThis Button END --></td></tr><tr><td><table height="4" cellspacing="2" cellpadding="0" border="0"><tbody><tr><td valign="top" align="left"><span style="font-size:100%;"><br /></span></td></tr></tbody></table></td></tr><tr><td width="100%" height="2" style="color:#aaaaaa;"><span style="font-size:100%;"></span></td></tr><tr><td><table height="4" cellspacing="2" cellpadding="0" border="0"><tbody><tr><td valign="top" align="left"><span style="font-size:100%;"><br /></span></td></tr></tbody></table></td></tr><tr valign="top" align="left"><td width="800"><table cellspacing="0" cellpadding="2" width="20%" align="left" border="0"><tbody><tr><td class="images"><span style="font-size:100%;"><br /></span></td></tr><tr><td class="images"><span style="font-size:100%;"><br /></span></td></tr></tbody></table><span style="font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:100%;"><blockquote style="MARGIN-TOP: 0px; MARGIN-BOTTOM: 0px"><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><?xml:namespace prefix = o /><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><strong>12 tháng 4, 1975 và cuộc di tản vô tiền khoáng hậu<o:p></o:p></strong></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p><span style="font-family:Verdana;"><strong></strong></span></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p><span style="font-family:Verdana;"><strong></strong></span></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><strong>Hà Giang/Người Việt (từ <?xml:namespace prefix = st1 /><st1:city st="on"><st1:place st="on">Seattle</st1:place></st1:city>)<o:p></o:p></strong></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">LTS - Ðúng ngày này, 35 năm trước, chiếc máy bay quân sự Mỹ đưa 216 cô nhi Việt Nam thoát khỏi một quốc gia đang hấp hối, để vào Hoa Kỳ. Ðộc giả Người Việt cách đây ít lâu được biết đến câu chuyện của thanh niên Vũ Tiến Kinh, đi tìm, và tìm được vị bác sĩ đã cứu sống mình 35 năm trước tại bệnh viên UCLA. Vũ Tiến Kinh là một trong 216 cô nhi ấy. Nhưng, ai là người đứng đàng sau chiến dịch di tản 216 cô nhi An Lạc? Cuộc di tản vô tiền khoáng hậu được thực hiện ra sao trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>? Xin giới thiệu cuộc chuyện trò dưới đây, giữa phóng viên Hà Giang và người phụ nữ Hoa Kỳ có cả cuộc đời gắn liền với hàng trăm cô nhi gốc Việt.</span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/111310-big_A1_BT_Lien1.jpg" align="absMiddle" border="0" /></span></span></p><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Bà Betty Tisdale (phải), năm nay đã 87 tuổi, với cô con gái tên Liên là 1 trong 5 người do chính bà nhận nuôi trong số 216 cô nhi An Lạc, trong một bữa cơm tại Seattle. (Hình: Phạm Kim/Người Việt Tây Bắc)<o:p></o:p></span></span></i></p><o:p></o:p></span></span><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">***<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Sài Gòn, cách đây 35 năm<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tháng 4 năm 1975, tình hình ngày càng tệ, nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc chiến sắp tàn, Sài Gòn sẽ thất thủ, một số lớn người Việt Nam đã bồng bế nhau đi.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Khi Tổng Thống Gerald Ford cho phép các máy bay vận tải (cargo aircraft) được bắt đầu di tản cô nhi ra khỏi Sài Gòn, tôi biết là đã nguy kịch lắm.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Mọi việc biến chuyển quá nhanh!”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Hồi tháng 2, khi về Việt Nam ăn Tết với các cô nhi An Lạc, tôi thấy mọi việc xung quanh còn có vẻ bình thường.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Thật không thể tưởng tượng quân đội Hoa Kỳ đã thực sự bỏ cuộc, và cộng sản Bắc Việt sẽ tiến chiếm Sài Gòn.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Nhưng không có nhiều thì giờ để sửng sốt.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi lập tức gọi cho bà Vũ Thị Ngãi, Giám Ðốc viện mồ côi An Lạc, và người mẹ tinh thần của tôi, là hãy chuẩn bị di tản gấp, vì chỉ vài ngày nữa tôi sẽ về mang hết toàn thể mọi người, cô nhi, giám đốc và nhân viên của An Lạc qua Mỹ.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Di tản tất cả mọi người?”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Tôi nhớ lúc đó bà Ngãi đã ngỡ ngàng hỏi.<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Và tôi trả lời: ‘Vâng, tất cả mọi người!’”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ðặt xong vé máy bay, tôi biết mình chỉ vỏn vẹn có hai ngày để chuẩn bị cho cuộc di tản vĩ đại.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tuy nói thật mạnh miệng với bà Ngãi, thú thật, lúc bấy giờ, tôi chưa hề biết mình sẽ xoay sở ra sao để mang được cả 400 cô nhi của An Lạc qua đây.”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chỉ biết là tôi không thể để cho các em sống trong thế giới vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản!”<o:p></o:p></span></span></i></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">***</span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/111310-big_A1_BT_Album1.jpg" align="absMiddle" border="0" /></span></span></p><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Bà Tisdale còn giữ cuốn album hình ảnh những ngày chạy khỏi Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>. Hai tấm này là hình những em cô nhi lớn hơn giúp đặt các em nhỏ hơn vào trong giỏ để chuẩn bị lên máy bay. (Hình: Hà Giang/Người Việt)<o:p></o:p></span></span></i></p><o:p></o:p></span></span><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Nói đến đây, người đàn bà ngồi trước mặt tôi, tóc bạc phơ, da mồi, khuôn mặt phúc hậu, đã 87 tuổi, nhưng đôi mắt hiền từ còn rất tinh anh, và giọng nói còn mạnh mẽ, ngừng lại để nhấp một ngụm nước.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Trong căn nhà nhỏ ở Seattle, tiểu bang Washington, có nhiều cây bao quanh, không khí như đẫm ướt sương, và lá rơi khắp mặt đường, tôi ngồi thu mình trong chiếc ghế sofa, mà theo lời bà, “được chế ra từ một chiếc giường mây mang đến từ cô nhi viện An Lạc, 35 năm trước đây.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Và câu chuyện bà kể, cũng cũ xưa như chiếc giường mây tôi đang ngồi, xảy ra cách đây đúng 35 năm, với tôi là một hành trình đi tìm lịch sử, nhưng với bà là một chuyến xe trở về với kỷ niệm.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Tên bà là Betty Tisdale.</span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/111310-big_A1_XuanLien1.jpg" align="absMiddle" border="0" /></span></span></p><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Hai cô gái tên Xuân (trái) và Liên, là 2 trong 5 cô gái đã được ông bà Tisdale nhận làm con nuôi từ cô nhi viện An Lạc. (Hình: Hà Giang/Người Việt)<o:p></o:p></span></span></i></p><o:p></o:p></span></span><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Bắt đầu từ cuộc di cư 1954<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Câu chuyện được tiếp tục sau khi bà Tisdale đưa tôi đi thăm căn phòng, mà bà gọi là “The Việt Nam Room.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Căn phòng, chứa đầy bàn ghế tủ giường làm từ Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>, và một cuốn scrap book vĩ đại to bằng một phần tư cái giường, trong đó dán đầy hình ảnh và bài báo của gần năm mươi năm sinh hoạt của bà.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Cuốn scrapbook của bà vĩ đại quá!” Tôi kêu lên.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Lần giở vài trang, bà Tisdale nói như cho một mình mình nghe.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Cả cuộc đời tôi nằm trong ấy!</span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/111310-big_A1_BT_Show%20Ha%20Giang1.jpg" align="absMiddle" border="0" /></span></span></p><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Bà Betty Tisdale đang chỉ cho phóng viên Người Việt xem chồng tài liệu bà còn giữ của thời di tản các em mồ côi An Lạc. (Hình: Phạm Kim/Người Việt Tây Bắc)<o:p></o:p></span></span></i></p><o:p></o:p></span></span><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Ðó là cuộc đời của tôi...”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi sẽ phải trở lại căn phòng này, xem từng tài liệu, nếu bà cho phép!” Tôi nói.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Sáng mai tôi sẽ đón em trở lại và chúng ta sẽ duyệt qua mọi tài liệu em muốn.” <span style="color:black;">Bà Tisdale nhìn tôi hứa hẹn.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ồ thích quá, bà cho phép thật không?” Tôi reo lên.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Chúng tôi xuống ngồi ở phòng khách, rồi bà tiếp tục câu chuyện.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi sinh năm 1923 và là chị cả trong một gia đình có năm chị em.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Lớn lên trong thập niên 1930s, thời “depression” (giai đoạn Ðại Khủng Hoảng Kinh Tế) của Hoa Kỳ, tôi phải giúp cha săn sóc các em từ nhỏ, vì mẹ bà bị bệnh lao, lúc đó không chữa được, phải ở trong một viện dành cho những người cùng bệnh.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Năm tôi chín tuổi thì cha bị bệnh chết, đứa em trai út cũng chết vì bệnh lao.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Hai người cô ruột, và một người hàng xóm chia nhau mang bốn chị em chúng tôi về nuôi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Lớn lên không được đi học nhiều, tôi làm đủ mọi thứ việc để kiếm sống, và dần dà được nhận vào làm thư ký cho hãng US Steel, một công việc không dễ lúc đó.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Lúc hai mươi mấy tuổi, tôi đã tự tạo được cho mình một cuộc sống khá ổn định, độc lập, không vướng bận, nhưng lúc nào cũng thấy mình bị thôi thúc bởi một cảm giác bất an là ‘chưa làm được gì.’”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Mẹ nuôi thấy tôi bất an, luôn bảo là hãy mãn nguyện với cuộc sống của mình.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Nhưng hai chữ mãn nguyện làm tôi thật ‘bất mãn!’”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Vì nếu lúc nào cũng mãn nguyện thì còn làm gì được cơ chứ?” Bà Tisdale cao giọng.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Thế rồi một hôm, định mệnh đẩy vào tay tôi một cuốn sách khiến tôi ngơ ngẩn.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Nói đến đây bà với tay lên kệ sách, rút ra và trao cho tôi cuốn sách cũ kỹ, bìa rách tả tơi. Ðó là một cuốn sách cũ kỹ đã xuất bản cách đây gần 50 mươi năm, có tên là “Deliver Us from Evil” của Bác Sĩ Tom Dooley, một bác sĩ quân y thuộc Hải Quân Hoa Kỳ.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Ngoài bìa là hình một người đàn ông Mỹ đứng cạnh một đứa bé Á Ðông.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Nâng cuốn sách trên tay, tôi như bị thôi miên bởi những tấm hình trắng đen ghi lại cuộc di cư của hơn một triệu người trốn chạy Cộng Sản từ Bắc vào <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>. Những hình ảnh có lẽ trông còn thê thảm hơn cả cảnh vượt biên của 'boat people' vào năm 1975.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Sách kể lại những gì Bác Sĩ Tom Dooley đã làm để xoa dịu vết thương của những người có mặt trên chuyến “Hàng Không Mẫu Hạm USS Montague” đưa người Bắc di cư vào Nam năm 1954.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Lật một trang sách, bà Tisdale chỉ cho tôi xem tấm hình chụp một người đàn bà đang trên đường trốn chạy, nhưng vẫn rất thanh lịch, đang được những đứa trẻ rách rưới lem luốc vây quanh.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ðó là bà Vũ Thị Ngãi, một người đàn bà góa chồng, có học thức, thuộc dòng dõi quý tộc.” Bà Tisdale nói.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Trên đường di cư, bà Ngãi nhặt hết những đứa trẻ nằm lê lết bên xác của cha mẹ rồi mang theo vào <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Những đứa trẻ này, là những em cô nhi đầu tiên của cô nhi viện An Lạc.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ðó là lần đầu tiên tôi nghe đến cái tên cô nhi viện này.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Tôi lướt nhanh những hàng chữ trước ở bìa trong.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Sách kể sau cuộc di tản, Bác Sĩ Tom Dooley giúp bà Vũ Thị Ngãi dựng cô nhi viện An Lạc, những trẻ mồ côi và nạn nhân chiến tranh, ông cứ về Mỹ xin tiền, gây quỹ, rồi lại mang vào Việt Nam để giúp đỡ họ.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Nội dung cuốn sách cứ ám ảnh tôi. <span style="color:black;">Tôi không thể xua được những hình ảnh bác sĩ Tom Dooley săn sóc đủ mọi loại bệnh nhân ra khỏi đầu.” Bà Tisdale kể tiếp.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi quyết tìm gặp Bác Sĩ Tom Dooley cho bằng được.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Và cuối cùng tôi thì cũng gặp được ông trong khu chữa bệnh ung thư của một bệnh viện ở Nữu Ước.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi hỏi ông có tôi có thể làm gì để giúp đỡ việc ông đang làm.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ông không nói gì về bệnh tình của mình, mà chỉ bảo tôi khi có thì giờ nên về thăm cô nhi viện An Lạc, rồi sẽ biết phải làm gì.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Sau lần gặp mặt duy nhất đó, Bác Sĩ Tom Dooley qua đời, lúc ông mới 34 tuổi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Bác Sĩ Tom Dooley còn nói với bà điều gì không?” Tôi hỏi.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span style="font-family:Verdana;"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;">“Có! Ông nói một câu mà tôi không bao giờ quên.”</span> </span><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><br /><span style="font-family:Verdana;">“...”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Là đừng bao giờ quên rằng một người bình thường cũng làm được những việc phi thường.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Một người bình thường cũng làm được những việc phi thường.” Tôi lập lại.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span style="font-family:Verdana;"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;">“Vâng! Thế là tôi để dành tiền, mua vé máy bay về thăm An Lạc.”</span> </span><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><br /><br /><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cô nhi viện An Lạc<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chiếc xích lô đưa tôi đến cô nhi viện trong một buổi trưa nóng bức của năm 1961.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Và dù đã chuẩn bị tinh thần, quang cảnh của cô nhi viện An Lạc làm tôi chết lặng.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Bà Vũ Thị Ngãi lúc ấy đang săn sóc một đứa trẻ bị ghẻ lở, đứng dậy rửa tay, rồi ra đón tôi, và đưa tôi đi một vòng thăm cô nhi viện của bà.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Trẻ em nằm thọt lỏn trong những cái võng được bện bằng vải rách, hoặc còng queo trên một dãy những chiếc nôi rỉ sét.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Không có hệ thống nước trong nhà. <span style="color:black;">Tất cả mọi người tắm rửa ở các vòi nước ngoài sân.”<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Không có cả nhà bếp, ngoài những chiếc lò than nằm lỏng chỏng dưới đất.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ở các góc phòng, nhiều trẻ em, đứa lớn bồng đứa bé.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Thế nhưng đâu đó vẫn có tiếng cười trong như pha lê, và những ánh mắt long lanh.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi đến gần một chiếc nôi và bế một đứa bé.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span style="font-family:Verdana;"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;">“Và khi đứa bé đưa hay tay quàng vào cổ tôi, rồi nhất định co chân đu người lên không cho tôi thả nó xuống nôi nữa, thì tôi biết cuộc đời mình giờ đã gắn liền với An Lạc.”</span> </span><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><br /><br /><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cuộc đời gắn liền với An Lạc<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Trở về Mỹ, bà Tisdale quyết định không thể tiếp tục làm thư ký cho hãng US Steel được nữa, mà phải đi tìm một công việc khác, để có điều kiện hỗ trợ bà Vũ Thị Ngãi, và những đứa trẻ đáng thương bà đã gặp ở An Lạc.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Nhờ người quen giới thiệu, bà được giới thiệu vào làm thư ký cho Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits tại tiểu bang Nữu Ước.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Và dùng thế lực của Thượng Nghị Sĩ Javits, bà xin được thuốc men, tã lót, nồi niêu, xoong chảo, sách vở và tất cả những thứ một viện mồ côi cần có.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Hàng năm bà Tisdale dùng ngày nghỉ phép của mình để về thăm và sống với các em cô nhi An Lạc.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cũng dùng sự quen biết của mình, bà gặp các binh sĩ Hoa Kỳ đóng gần Sài Gòn nhờ họ đến giúp xây hệ thống nước, bếp, và giường chiếu.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cuối tuần, các binh sĩ Hoa Kỳ rủ nhau đến chơi đùa với các em, và làm những việc cần thiết để biến An Lạc thành một nơi tương đối khang trang cho các em.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cũng tại An Lạc, bà Tisdale gặp một bác sĩ quân y góa vợ, đến giúp cô nhi viện và hai người kết hôn.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Trong tấm hình cưới của hai người, tôi thấy chồng bà, Bác Sĩ Quân Y Tisdale, có nét quen quen. Nhìn kỹ thì mới thấy ông có nét giống Bác Sĩ Tom Dooley thuở nào.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Trong vòng mười bốn năm trời, bà Tisdale mỗi năm đi thăm An Lạc mấy lần, và chăm sóc từng cô nhi ở An Lạc và coi tất cả như con của mình.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Cuộc sống êm đềm tưởng cứ thế trôi, nhưng không ngờ đùng một cái bà phải di tản cả cô nhi viện.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Di tản<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><b><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Sau khi đã mua vé đi Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> rồi thì tôi bắt đầu lo.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Làm sao mang được các em qua đây?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Mang đến đây rồi chứa các em ở đâu?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Làm sao để có thể tìm ngay cha mẹ nuôi cho ngần ấy em trong vòng một thời gian ngắn?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ðầu óc tôi quay cuồng những câu hỏi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Không biết bắt đầu từ đâu, bà Tisdale gọi Hoa Thịnh Ðốn, rồi được biết là chính phủ đòi hỏi trẻ em phải có sẵn cha mẹ nuôi, hay đang làm thủ tục làm con nuôi thì mới được vào Mỹ.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Bà gọi Sở Di Trú thì được họ đề nghị là nên liên lạc với một trong các tổ chức chuyên lo thủ tục con nuôi thì mới có thể mang các em vào Hoa Kỳ.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi chỉ là một cá nhân tự quyên tiền, bấy lâu đi về Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> để giúp các em, hầu như không quen lắm với thủ tục xin/cho con nuôi.” Bà kể.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ngoại trừ những lần làm thủ tục nhận năm bé gái An Lạc làm con nuôi và mang về Mỹ.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi gọi cho trung tâm Tressler Lutheran ở <st1:state st="on"><st1:place st="on">Pennsylvania</st1:place></st1:state>, và được họ hứa sẽ tìm cách giúp đỡ.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Nhưng trước khi đi Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> tôi còn phải tìm chỗ tạm trú cho các em.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi chợt nhớ đến trại <st1:placetype st="on">Fort</st1:placetype> <st1:placename st="on">Benning</st1:placename> ở <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Georgia</st1:place></st1:country-region>. Nơi đây có những trại trống, tại sao không thể tạm để các em ở đó?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Liên lạc với vị tướng của trại Fort Benning mãi không được, tôi tìm cách gọi cho mẹ của ông, tự giới thiệu và giải thích là tôi phải mang 400 trẻ em cô nhi qua, cho biết cần sự giúp đỡ của bà, vì sáng mai tôi phải đi Việt Nam sớm.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“May sao, bà biết đến tên tôi vì thỉnh thoảng tôi hay đi diễn thuyết ở các nhà thờ.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“‘Ðể chuyện đó tôi lo cho!’ Mẹ của ông tướng nói.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Về đến Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>, tôi đến ngay Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Lúc đó tòa đại sứ đã chuẩn bị để đóng cửa, tủ bàn xô lệch, hồ sơ đã được đóng thùng, chuẩn bị đưa đi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Vị đại sứ giới thiệu tôi với một người lo máy bay di chuyển của quân đội.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Ông ta nói có thể lo việc vận chuyển, cần bao nhiêu máy bay của quân đội cũng có, nhưng tôi cần được sự chấp thuận của chính quyền Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi đi gặp thứ trưởng Bộ Xã Hội là Bác Sĩ Phan Quang Ðán, thì được ông cho biết chúng tôi cần phải có một danh sách và giấy khai sanh cho các em.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Trẻ em bị bỏ rơi người ta mang đến vất ở cửa cô nhi viện, chúng tôi nhặt vào nuôi, làm sao có giấy khai sanh bây giờ?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Nhưng bắt buộc phải vượt qua mọi trở ngại!”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chúng tôi làm việc thâu đêm để chế ra giấy khai sinh cho các em, rồi tạo ra một danh sách, với 400 tên.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chúng tôi đặt tên cho các em trai bắt đầu với Vũ Tiến... Và các em gái bắt đầu với Vũ Thị...”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tại sao lại chọn họ Vũ?” Tôi hỏi.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Vì lấy theo họ bà Vũ Thị Ngãi, sáng lập viên và giám đốc của cô nhi viện.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Sáng ngày lên đường chúng tôi mang danh sách lên nộp ở Bộ Xã Hội, thì được Bác Sĩ Phan Quang Ðán cho biết không thể cho các em trên mười tuổi ra đi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Vì sao?”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chúng tôi sẽ cố thủ, chúng tôi không thể bỏ cuộc. Chúng tôi không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mười tuổi ở lại để giúp đánh trận.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi rất tiếc là không thể để cho các em đi được. Ðó là quyết định của chính phủ tôi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Thứ Trưởng Phan Quang Ðán cương quyết.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Khi tôi mang lệnh của Thứ Trưởng Phan Quang Ðán về báo cho cô nhi viện thì cảnh trước mặt làm tôi thật đau lòng.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Các em sơ sinh đã được đặt nằm gọn ghẽ vào trong những chiếc giỏ phủ đầy chăn và tã, các em lớn quần áo chỉnh tề. Các em hai ba tuổi thì đang chạy lăng quăng chơi đùa quanh những cái giỏ.”</span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><o:p><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/111310-big_A1_BT_EnquirerLedger1.jpg" align="absMiddle" border="0" /></o:p></span></span></p><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><em>Trang báo Columbus Enquirer-Ledger ở Georgia, phát hành ngày Thứ Bẩy, 12 tháng 4, năm 1975, đăng tin về chuyến bay sẽ đưa các trẻ em cô nhi An Lạc đến Georgia cùng ngày. </em></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><em>Một cô nhi đã chết trên đường đi, lúc đó báo này chưa biết tin. (Hình: Hà Giang/Người Việt)</em></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><em></em></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt" align="center"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><em></em></span></p></span><span style="font-family:Verdana;"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;">“Bà Vũ Thị Ngãi, người phụ tá và các thiện nguyện viên cũng đã sẵn sàng lên đường.”</span> </span><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><br /><span style="font-family:Verdana;">“Tin nghe như sét đánh ngang tai, người lớn chỉ lặng lẽ nhìn nhau, còn các em lớn được bảo thay quần áo ra thì ngơ ngác.”<o:p></o:p></span></span> <p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Xa xa có tiếng súng nổ. Người ta bảo cộng sản Bắc Việt đã tiến gần vào thành phố.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Sau khi trấn tĩnh. Chúng tôi quyết định cùng kéo nhau hết ra phi trường, những em phải ở lại đưa tiễn những đứa được ra đi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Trước khi lên xe, tôi quay lại nhìn cô nhi viện lần cuối.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Những chiếc nôi trống rỗng. Không có trẻ em, cô nhi viện trông như một cái xác không hồn.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Bà Vũ Thị Ngãi đứng yên một góc, mắt đỏ hoe.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tại phi trường, chúng tôi bịn rịn chia tay.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi ôm bà Ngãi, và hứa sẽ quay trở về để đón bà, mà lòng tự hỏi không biết khi tôi trở về được thì có muộn quá không.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Hai chúng tôi cùng cố không khóc, nhưng nước mắt ràn rụa.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">”Các em bé được quân nhân chuyển từ những cái giỏ vào các thùng giấy cho an toàn hơn.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Mọi thứ đã sẵn sàng.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Máy bay gầm gừ cất cánh, những cái vẫy tay của bà Ngãi và giọt nước mắt của các em nhạt nhòa dần. Nhưng những hình ảnh ấy sao cứ mãi khắc sâu trong tâm khảm.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Tôi đã ra đi, bỏ lại gần hai trăm đứa con mình đã săn sóc cả mười bốn năm trời.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Và lời nói của Thứ Trưởng Phan Quang Ðán mãi cứ vang trong tai tôi.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chúng tôi sẽ cố thủ.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Chúng tôi không thể bỏ cuộc.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">“Chúng tôi không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mười tuổi ở lại để giúp đánh trận.”<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">Ngày 12 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay chở 219 cô nhi từ An Lạc đáp cánh an toàn tại Los Angeles. <span style="color:black;">Một số cô nhi quá yếu đã được gửi lại ở UCLA để được săn sóc. </span>Trách nhiệm của chính phủ Hoa Kỳ đến đây là hết. Ông bà Tisdale phải tự tài trợ phí tổn $21,000 cho chuyến bay đưa các em từ Los Angeles về Fort Banning để lo thủ tục tìm cha mẹ nuôi. Tất cả các em đã được trung tâm Tressler Lutheran Agency tìm cha mẹ nuôi trong vòng trên dưới một tháng.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 6pt"><i><span new="" times="" style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;">(Trong số báo đặc biệt nhân 35 năm biến cố 30 tháng 4, Người Việt sẽ kể tiếp câu chuyện của bà Betty Tisdale, và cả câu chuyện của 216 cô nhi An Lạc năm nào; Ðiều gì đã xảy ra? Ai còn, ai mất? Hơn 200 em thuộc đại gia đình “Vũ Tiến...,” “Vũ Thị...” hội nhập ra sao?)</span></span></i></p></blockquote></span></td></tr></tbody></table><br /><br /><em><span style="color:#660000;">Ngô Nhân Dụng<br /><br />Chúng ta mới có dịp gặp gỡ, trên tờ báo này, những nhân vật đã bị quên lãng trong 35 năm qua, kể từ sau biến cố năm 1975, như em Vũ Tiến Kính và bà Betty Tisdale. Nhiều độc giả Người Việt đã bày tỏ nỗi xúc động sau khi đọc câu chuyện em Kính đi tìm nguồn cội Việt Nam của mình. Nhờ duyên lành được một bác sĩ của trường UCLA chăm sóc em khi mới đến Mỹ, em bé mồ côi Vũ Tiến Kính đã được phóng viên Người Việt đưa về Little Sài Gòn hòa nhập trong cộng đồng người Việt. Vào cuối Tháng Tư này, em sẽ trở lại đây hội ngộ với đồng bào, bao nhiêu cánh tay đang chờ ôm lấy đứa con bị thất lạc suốt 35 năm, đang tìm về cùng cô dì, chú bác, anh chị em.<br /><br />Ðầu tuần này, cũng trên mặt báo Người Việt, chúng ta lại được nghe Hà Giang kể câu chuyện bà Tisdale, người đã vận động mang được 2 trăm trẻ em mồ côi Việt Nam sang Mỹ vào những ngày cuối Tháng Tư năm đó, mà em Kính là một trong số trẻ may mắn này. Cùng lúc đó, ở Sài Gòn, báo Tuổi Trẻ đã kể câu chuyện cô Trista Goldberg, một trẻ mồ côi được bốc khỏi Sài Gòn vào cuối Tháng Tư 1975, lúc cô mới lên 4 tuổi. Cô Trista đã tìm lại được cha mẹ nuôi cũ hồi cô ở Việt Nam, rồi tìm được cả cha mẹ ruột và anh chị em, sau khi cả hai gia đình đã sang Mỹ sống. Cô Trista dùng mạng lưới Internet liên lạc với trên 50 trẻ em mồ côi khác, cũng ra đi trong những chuyến không vận năm 1975. Cô đã lập một tổ chức giúp họ tìm cha mẹ, thân nhân. Tổ chức tên là Operation Reunite, Chiến dịch Tái Ngộ, dùng Facebook để nói chuyện với nhau, trao đổi tin tức. Dù có người giúp hay không, những đứa trẻ bị quên lãng trong suốt 35 năm qua vẫn muốn về tận nguồn gốc, tìm hiểu tổ tiên và nhận họ hàng.<br /><br />Cuối Tháng Tư này, quý vị trong vùng Little Saigon sẽ có cơ hội gặp bà Betty Tisdale, một người xả thân vì việc nghĩa, mà sau khi đọc bài báo của Hà Giang nhiều độc giả đã gọi bà là một vị tiểu bồ tát. Nhưng trong cùng bài báo trên, Hà Giang cho biết chính bà Betty Tisdale đã gọi bà Vũ Thị Ngãi, và Bác Sĩ Tom Dooley là những vị “thánh.” Bà Ngãi là người trông nom cô nhi viện An Lạc ở Sài Gòn trước 30 Tháng Tư, năm 1975, sau khi đã đưa 80 em trẻ mồ côi từ Bắc di cư vào Nam năm 1954. Betty Tisdale đã đọc sách của Bác Sĩ Thomas Dooley nên biết đến bà Ngãi và công cuộc nuôi cô nhi của bà tại Việt Nam. Bác sĩ là người đã khuyên bà Tisdale hãy đi Việt Nam, hãy tới thăm Cô nhi viện An Lạc. Những lời ông khuyên, trên giường bệnh, trước khi ông qua đời vì ung thư khi mới 34 tuổi, đã thay đổi cuộc đời của người phụ nữ này. Bà Tisdale đã gặp các cô nhi, hàng ngàn “đứa con” của bà Vũ Thị Ngãi, từ năm 1961 đến năm 1975. Bà đã dùng cuộc đời sau đó của mình để đi tìm các nguồn tài trợ giúp nuôi các trẻ em mồ côi này, mặc dù bà vẫn sống và làm việc như mọi phụ nữ Mỹ bình thường khác. Và Tháng Tư năm 1975 bà Tisdale đã vận động để đưa được 219 trẻ em mồ côi qua tới Los Angeles, rồi dần dần trao các em cho các gia đình cha mẹ nuôi. Ðã 35 năm qua, năm nay là lần đầu tiên bà Betty Tisdale, nay 87 tuổi, sẽ chính thức “tái ngộ” với cộng đồng người Việt Nam, ở California. Ðể người Việt Nam bày tỏ lòng biết ơn với một con người có tấm lòng từ bi vô lượng và một ý chí phi thường khi muốn làm việc nghĩa.<br /><br />Trên thế giới không thiếu gì những người giầu lòng từ bi. Cũng trong số báo Người Việt đầu tuần này, quý vị đã đọc chuyện một gia đình người Việt ở Mỹ hàng năm vẫn về làm việc thiện tại một ngôi chùa ở Huế. Phóng viên Trần Tiến Dũng đã chứng kiến cảnh hàng trăm người kém mắt được Ni Sư Minh Tú mời về chùa nhận những món quà do lòng từ thiện của người Việt giúp đỡ người Việt. Có những cụ già 90 tuổi, hoàn toàn mù lòa, tai không còn nghe được nữa; có cả những em mù từ tấm bé, được mẹ ôm tới chùa. Mỗi lần trên báo này kể một câu chuyện thương tâm ở trong nước, rất nhiều độc giả đã viết thư xin địa chỉ các nạn nhân để trực tiếp giúp.<br /><br />Trong xã hội người Việt, ở ngoại quốc cũng như ở trong nước, có bao nhiêu người muốn làm việc thiện, và rất nhiều người có thể sẵn sàng xả thân vì đạo nghĩa. Một điều khác biệt, là ở những nơi con người được sống tự do thì người ta có thể làm việc thiện hiệu quả hơn. Bởi vì một người làm việc thiện một mình đã là rất tốt, nhưng nếu 10 người, 100 người cùng góp sức, cùng tổ chức chung để làm việc thiện thì kết quả không phải chỉ nhân lên 10 lần hay tăng lên gấp 100 lần, mà có thể tăng lên hàng vạn, hàng triệu lần sức của một cá nhân.<br /><br />Ðọc câu chuyện về bà Betty Tisdale, chúng ta thấy công việc bà làm đã sử dụng tới nhiều tổ chức trong xã hội công dân ở Việt Nam cũng như ở Mỹ. Bà Tisdale không thể thực hiện được ý nguyện độ sinh của mình dễ dàng, nếu không có bà Vũ Thị Ngãi và những người khác, đã tổ chức ra cô nhi viện An Lạc ở Việt Nam. Chính các tổ chức tư nhân, trong đó có nhiều tôn giáo tham dự, đã lo hàn gắn các “vết thương xã hội” trong thời chiến tranh ở miền Nam. Chính quyền không đủ sức lo tất cả, các công dân tự động đứng ra làm các việc đó. Ðó là ý nghĩa của sự thành hình xã hội công dân. Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mọi người dân cũng được tự do làm việc từ thiện, tổ chức các hội thiện nguyện, mà không bị các cán bộ trong một “Mặt trận Tổ quốc” nào theo dõi, kiểm soát tư tưởng chính trị!<br /><br />Ở nước Mỹ, xã hội công dân còn mạnh hơn nữa. Khi cần giúp các em cô nhi ở Sài Gòn, bà Tisdale trở về Mỹ vận động các hội thiện, các nhà thờ, bệnh viện, để xin thuốc men, tiền bạc, thực phẩm. Các tổ chức tư nhân, tự nguyện này, tạo thành một xã hội công dân Mỹ, hoàn toàn độc lập với chính quyền Mỹ. Ðây là một truyền thống trong xã hội Mỹ từ thời lập quốc, mà các nhà quan sát nước ngoài như Alexis de Tocqueville đã khen ngợi. Xã hội công dân năng động chính là một nền tảng giúp cho chế độ tự do dân chủ ở nước Mỹ được bền chặt, không qua những cảnh thăng trầm như ở Âu Châu.<br /><br />Bà Tisdale không bao giờ quên một câu Bác Sĩ Tom Dooley khuyên bà, khi ông nằm chờ chết trên giường bệnh, “Ðừng bao giờ quên rằng một người bình thường cũng có thể làm được những việc phi thường.”<br /><br />Trên thế giới, và trong nước Việt Nam của chúng ta, có biết bao nhiêu người bình thường với tấm lòng từ bi. Họ có thể làm được những việc phi thường, như bà Tisdale, nếu có hoàn cảnh thuận tiện. Chúng ta có thể tạo ra được những hoàn cảnh thuận lợi, bằng cách xây dựng một xã hội trong đó mọi công dân đều được tự do hội họp lại để cùng làm việc công ích, mà không cần phải xin giấy phép, không bị điều tra lý lịch chính trị - chắc chắn không bị điều tra từ ông bà tổ tiên ba đời trước! Mẹ Teresa đáng được phong thánh, dù bà theo bất cứ tôn giáo nào. Nhưng nếu bà Agnès Gonxhe Bojaxhiu sống ở trong một nước thiếu tự do, như tại quê hương bà ở Albanie, thì bà không thể thực hiện được những công trình lớn lao như bà đã làm được tại Ấn Ðộ. May mắn, quê hương thứ hai của bà là một nước tự do dân chủ, cho nên bà mới được tự do dựng trường học, lập nhà thương, khuyến khích mọi người tự động đứng ra tổ chức làm công việc thiện nguyện chung với nhau, mà không bị một chính quyền độc tài nghi ngờ rồi ngăn cản. Năm 1950, Mẹ Teresa lập Hội Truyền Giáo Bác Ái. Năm 1952, bà thành lập Nhà của Những Người Ðang Chết. Nếu Mẹ Teresa không đến Ấn Ðộ mà lại tới Trung Hoa để làm việc thiện, thì chắc chắn sau năm 1949 bà sẽ phải bó tay. Vì Mao Trạch Ðông cũng như Stalin không bao giờ cho phép xã hội công dân được phát triển độc lập ngoài tầm kiểm soát của đảng cộng sản.<br /><br />Các chế độ độc tài thường ngăn cấm người dân không cho tự do lập hội. Họ có thể cho phép những người bất mãn ngồi quán chửi chế độ mà không ai bị bắt. Nhưng nếu có 3 người, 5 người muốn họp nhau lại làm một việc gì chung, mà chính quyền thấy không kiểm soát được về mặt chính trị là họ sẽ cấm ngay. Trong các chế độ độc tài người ta đặt ra đủ các thứ “giấy phép” để ngăn cấm những hoạt động mà họ nghi ngờ. Mà các chế độ độc tài thì nghi ngờ tất cả mọi người dân. Trong bài trước, mục này đã kể tại Ba Lan chính quyền chấp nhận những lời khai của công dân mà không cần phải thị thực chữ ký, một cách giản dị hóa thủ tục hành chánh đỡ làm mất thời giờ của dân. Ông bộ trưởng Tài Chánh Ba Lan giải thích: Nguyên tắc là hãy tin dân đã; bao giờ có bằng cớ họ nói dối thì sẽ dùng luật pháp trừng phạt. Ở các chế độ độc tài thì ngược lại, chính quyền bao giờ cũng nghi ngờ dân trước đã. Xã hội công dân không phát triển được vì không có quyền tự do hội họp và lập hội. Một cách ngăn cản các quyền tự do của dân là thiết lập những hàng rào giấy phép! Trên mặt kinh tế, hậu quả của chính sách độc tài vẫn còn tác hại. Trong một bài phỏng vấn gần đây trên báo Tiền Phong, Tiến Sĩ Lê Ðăng Doanh nhận xét về nạn giấy phép sinh sôi, “Luật Doanh nghiệp khi ra đời đã xóa bỏ được 180 giấy phép con, chuyển đổi 286 giấy phép khác. Nhưng đến nay, giấy phép đã mọc thêm hơn 400 cái. Những giấy phép này được quy định trong luật, trong nghị định.”<br /><br />Nhiều vị độc giả Người Việt ở trong nước chắc cũng rất cảm động đọc những câu chuyện các em Vũ Tiến Kính, Trista Goldberg, chuyện bà Tisdale. Năm 1975, bà Tisdale chắc khó lòng tìm được nơi an trú cho 219 trẻ em mồ côi người Việt, nếu không nhờ một tổ chức thiện nguyện là Tressler Lutheran ở tiểu bang Pennsylvania đứng ra giúp các thủ tục giấy tờ tìm cha mẹ nuôi. Ðó là một tổ chức độc lập với chính quyền nước Mỹ, một trong hàng trăm ngàn, hàng triệu tổ chức tư nhân ở Mỹ, giường cột của xã hội Mỹ. Cô Trista cũng không thể thành lập một tổ chức như Operation Reunite quy tục các trẻ em mồ côi 1975, nếu cô không sống trong một nước với xã hội công dân năng động như ở nước Mỹ. Nếu sống ở một nơi mà Facebook bị cấm, Internet bị kiểm duyệt, thì cô làm sao gặp gỡ được 50 người cùng cảnh ngộ? Chính nhờ có tự do, cho phép xã hội công dân phát triển, mà “những người bình thường cũng có thể làm được những việc phi thường.”</span></em>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-29726468721133039002010-04-11T11:52:00.000-07:002010-04-11T11:53:10.497-07:00Câu chuyện tàu Trường Xuân.<div><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);">************************************</span></div> <div><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);">Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng:</span></div> <div><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);"><br /></span></div> <div><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);"><br /></span></div> <div><img alt="Tàu Tr°Ýng Xuân" src="http://take2tango.com/MyFiles/image/News/10-2009/Tuan%2010/TruongXuan-01.jpg" /></div> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"> <tbody> <tr> <td valign="top"><br /><span style="font-size: 16px; font-family: times,serif;"> <div> <div> <h1 align="left"><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"> <div><span style="font-size: 32px; color: rgb(0, 0, 0);"><b><span style="font-weight: normal; font-size: medium; word-spacing: 0px; text-transform: none; color: rgb(0, 0, 0); text-indent: 0px; font-style: normal; white-space: normal; letter-spacing: normal; border-collapse: separate;"><span style="font-size: 16px; font-family: times,serif;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#0000ff;"> <p class="ecxecxMsoNormal"><span style="font-size: 14pt; color: blue;">Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).</span></p></span></span></span></span></b></span></div></span></h1></div></div></span></td></tr></tbody></table> Có con tầu nằm trên bến đỗ...<br />Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ<span> </span>nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.<br /><br /><br /><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);">Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.<br /></span><br /><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.<br /><br /><i>Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.</i><br /><br />Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400<span> </span><img alt="Tàu Tr°Ýng Xuân" src="http://take2tango.com/MyFiles/image/News/10-2009/Tuan%2010/TruongXuan-03.jpg" align="right" vspace="2" width="470" height="362" hspace="5" />hành khách, nhưng chưa có người nào.<br /><br />Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><b>Saigon hấp hối</b><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.<br /><br />Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.<br /><br />Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.<br /><br />Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.<br /><br /><b>Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ</b><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.<br /><br />Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.<br /><br /><img alt="Tàu Tr°Ýng Xuân" src="http://take2tango.com/MyFiles/image/News/10-2009/Tuan%2010/TruongXuan-04.jpg" align="middle" width="760" height="264" /><br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><i>MS Clara Maersk (Denmark) Mother and children.<br /></i><br />Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.<br />Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><b>Trở lại với Trường Xuân</b><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.<br /><br />Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.<br /><br />Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.<br /><br />Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó.<br /><br />Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.<br /><br />Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.<br /><br />Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.<br /><br />Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia.<br /><br />Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt xuống biển.”<br /><br />Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.<br /><br />Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.<br /><br />Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”<br /><br /><b>Ra đời giữa trời biển mênh mông<br /></b></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.<br /><br />Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.<br /><br />Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><b>Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân !</b><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.<br /><br />Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.<br /><br />Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.<br /><br />Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.<br /><br />Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.<br /><br />Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><b>Một thế hệ tương lai</b><span> </span><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.<br /><br />Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Park<img alt="Tàu Tr°Ýng Xuân" src="http://take2tango.com/MyFiles/image/News/10-2009/Tuan%2010/TruongXuan-05.jpg" align="left" vspace="2" width="378" height="233" hspace="5" />son school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.<br /><br />“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống sót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống sót, một Trường Xuân Baby.”<br /><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><b>35 năm nhìn lại</b><br /></span><span style="color:#0000ff;"><span style="font-size:130%;">Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.<br /><br />Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.<br /><br />Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.<br />Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù.<br /><br />Chuyến đi của Trường Xuân</span><br /></span><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen<br />Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định<br /><br />Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại<br />Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới<br /><br />Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.<br />Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển<br /><br />Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...<br />Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...<br /><br />Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...<br /><br />Giao Chỉ-San Jose<br /><br /><br /><br /><br /><br /></span> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"> </span><span style="font-size:130%;"><span style="color:#0000ff;"><b>Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.</b></span></span></div> <div><span style="font-size:130%;"><span style="color:#0000ff;"><b><br /></b></span></span></div> <div><span style="color:#0000ff;"><span style="font-size: large;"><b><br /></b></span></span></div> <div><span style="font-size:130%;"><span style="color:#0000ff;"><b><span style="font-weight: normal;"><img alt="Tàu Tr°Ýng Xuân" src="http://take2tango.com/MyFiles/image/News/10-2009/Tuan%2010/TruongXuan-02.jpg" align="left" vspace="2" width="248" height="344" hspace="5" /></span></b></span></span></div> <div><span style="font-size: large; color: rgb(0, 0, 255);">Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.</span></div> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><br />Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. </span></div> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><br /></span></div> <span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><span style="font-size: medium; color: rgb(0, 0, 0);"> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. </span></div> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;"><br /></span></div> <div><span style="font-size:130%;color:#0000ff;">Tàu Trường Xuân khởi hành 2 giờ trưa 30/4/75.</span></div> <div><span style="color:#0000ff;"><span style="font-size: large;"><br /></span></span></div></span></span>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-76683965178327377442010-04-01T07:23:00.000-07:002010-04-26T16:44:13.340-07:00The Pictures April 26th 2009<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6LiwkUXoBB3noA45RSjZGL0uG3SUqmVH3muTXW4Z97cs0TG9gmB_-RUqCK2N1xGZjDFCY0jNwoWIcxbc-ndC4lbI85uNlH9rm4K7x4sRtcrhCyIVjmYHs63Ev8p24Hj23PP-NfVDKjeA/s1600/IMG_0618.JPG"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 400px; height: 267px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6LiwkUXoBB3noA45RSjZGL0uG3SUqmVH3muTXW4Z97cs0TG9gmB_-RUqCK2N1xGZjDFCY0jNwoWIcxbc-ndC4lbI85uNlH9rm4K7x4sRtcrhCyIVjmYHs63Ev8p24Hj23PP-NfVDKjeA/s400/IMG_0618.JPG" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5464596081066421234" border="0" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6RBSENOWYeckZ2AMzeqlsBtOX4LeZNvNLkba_2KMIHQZVSFC0HU6Y9wzxjVnMcY8xj6gQttKF_BHt_KujPHkXOoH2MuADWRK2MAkPuN0imSUGae2P7XfNE2hRzjE-V1iVRyqqm2lncl8/s1600/IMG_0616.JPG"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 400px; height: 267px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6RBSENOWYeckZ2AMzeqlsBtOX4LeZNvNLkba_2KMIHQZVSFC0HU6Y9wzxjVnMcY8xj6gQttKF_BHt_KujPHkXOoH2MuADWRK2MAkPuN0imSUGae2P7XfNE2hRzjE-V1iVRyqqm2lncl8/s400/IMG_0616.JPG" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5464595824614075778" border="0" /></a>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-12423986042248842232010-03-31T18:54:00.000-07:002010-03-31T18:56:24.390-07:00<div align="center"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiU6vZadZANZJj-vWeA1Kn5c5IJrBsGv5OTku03R8sODzVQESzR61mtmQl2QpZ7ZJ4I1A38OrVV6MiXN_mxOXZDUjAzzTKqh7uy_vcLk-jEd6CSRGsOzkY8xZbR7SlPhHKmF8ESVcpxYc0/s1600/thuongbinhvnchcut2chanApril2nd1975.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5454981668801181122" style="DISPLAY: block; MARGIN: 0px auto 10px; WIDTH: 430px; CURSOR: hand; HEIGHT: 308px; TEXT-ALIGN: center" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiU6vZadZANZJj-vWeA1Kn5c5IJrBsGv5OTku03R8sODzVQESzR61mtmQl2QpZ7ZJ4I1A38OrVV6MiXN_mxOXZDUjAzzTKqh7uy_vcLk-jEd6CSRGsOzkY8xZbR7SlPhHKmF8ESVcpxYc0/s400/thuongbinhvnchcut2chanApril2nd1975.jpg" border="0" /></a><strong> Quân Y Viện Cộng Hòa tháng 4-1975</strong><br /><br /></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-81300345723892847012010-03-31T18:36:00.001-07:002010-03-31T18:36:34.597-07:00Thiếu Tá Lý Bửng<b><span style="color:#002060;">LITTLE SAIGON</span></b> - <span style="color:#002060;">Năm nay kỷ niệm 35 năm, ngày hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do, một buổi lễ được đặc biệt tổ chức trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, nay là Bảo Tàng Viện USS Midway, đang neo đậu vĩnh viễn tại hải cảng San Diego, miền Nam California. Vào những ngày cuối tháng 4-1975, Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway đã đón nhận hàng ngàn người Việt di tản, trong đó có một số tướng lãnh cao cấp của chính quyền VNCH. Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng, một trong số những người có mặt trên USS Midway đã làm cho cả thế giới thán phục, vì ông là người đầu tiên lái loại phi cơ L19 đáp xuống hàng không mẫu hạm an toàn. Để tìm hiểu chi tiết sự kiện độc đáo của người phi công Không Lực VNCH, chúng tôi đã được ông dành cho cuộc phỏng vấn đặc biệt, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn của chúng tôi với Thiếu Tá Lý Bửng qua đường dây điện thoại viễn liên.<br /></span><br /><br /> <center><img src="http://www.viendongdaily.com/images/galary/VietNamHaiNgoai/@2010/@Mar10/LyBung/BungLee2.Landing.jpg" width="600" /></center><br /><span style="color:#002060;"> Quang cảnh lúc chiếc L19 do Thiếu Tá Lý Bửng lái đáp an toàn trên HKMH Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.<br /></span><br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Xin chào Thiếu Tá Lý Bửng, Thiếu Tá mạnh khỏe không?<br /><b>Thiếu Tá Lý Bửng</b>: Ồ, chào anh, tá với tướng gì nữa, gọi anh em đi cho nó thân mật.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Vậy thì cám ơn Thiếu Tá, nhưng trước khi xưng hô anh em, xin Thiếu Tá cho biết năm nay bao nhiêu cái xuân xanh rồi mà chưa nghỉ hưu vẫn phải đi cày?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Xấp xỉ bảy bó rồi, nhưng còn cày được ta cứ cày (cười).<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Vậy thì gọi Thiếu Tá là anh phải rồi, vì đàn em thua anh vài tuổi thôi.<br />(Đến đây xin phép độc giả, chúng tôi đổi cách xưng hô theo lời yêu cầu của Thiếu Tá Lý Bửng).<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Rồi, OK, tôi làm anh, chú là em. Bây giờ chú muốn hỏi điều gì đây?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thì hỏi anh chuyện lái máy bay đáp xuống hàng không mẫu hạm USS Midway đó mà!<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Mà hỏi để làm gì?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Để đăng báo cho bà con đọc!<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Thôi mà, có gì mà phải đăng báo! Mà đăng báo có sao không?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Sao là sao ạ? Có phải anh khiêm tốn hay là ngại chuyện gì khác?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Có liên quan đến chính trị không đó?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thưa không đâu, chả có chính trị chính em gì cả. Đây là câu chuyện lý thú và rất đặc biệt của một phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba thôi.<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Cho tôi một phút suy nghĩ.... Alô, rồi OK tới luôn đi.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thế là ông anh sẵn sàng trả lời rồi phải không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Sẵn sàng.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Trước hết xin cho biết, ông anh gia nhập Không Quân VNCH năm nào? Vào thời điểm cuối tháng 4-1975, anh mang cấp bậc gì, đơn vị nào và đồn trú tại đâu?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Cấp bậc cuối của tôi là Thiếu Tá, còn hỏi đơn vị để làm gì vậy chú?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thưa ông anh, trước hết để đơn vị của ông anh hãnh diện là có một bạn đồng ngũ nổi tiếng thế giới, đem vinh dự cho đơn vị; thứ hai là để kiểm chứng xem ông anh có ở trong Không Quân thiệt hay là ông anh cướp máy bay đi thì sao?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Chịu thua. Rồi, OK, tôi vô Không Quân năm 1963, đơn vị tôi là Phi Đoàn 114 Quan Sát, đóng tại Nha Trang, rồi gì nữa đây?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Anh lái loại máy bay nào khi bay ra hàng không mẫu hạm?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi lái L19, loại máy bay quan sát.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Nếu em nhớ không lầm, loại máy bay này người ta thường gọi là máy bay bà già hay là máy bay thám thính, đúng không anh?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Đúng rồi đó, nhưng mà gọi là máy bay quan sát cho nó nhẹ nhàng, chứ thám thính nghe ghê quá!<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Anh bay từ đâu ra hàng không mẫu hạm, và ngày nào?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi bay từ Côn Sơn. Đầu tiên tôi bay từ Tân Sơn Nhất ra Côn Sơn ngày 29-4, rồi từ Côn Sơn bay ra HKMH ngày 30-4-1975.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Anh có biết trước vị trí của chiếc HKMH đang ở đâu hay phải bay đi tìm?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi biết có HKMH đón người di tản, nhưng không rõ đang ở đâu, nên phải bay đi tìm.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Anh bay bao lâu thì thấy HKMH?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Khoảng nửa tiếng hay 45 phút thì gặp chiếc USS Midway.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Nếu không gặp HKMH, máy bay của anh có đủ nhiên liệu bay qua Thái Lan không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Nếu ở sát biên giới Thái Lan thì được, còn ở Sài Gòn, Biên Hòa, Nha Trang hay Côn Sơn thì không đủ nhiên liệu bay qua Bangkok.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Lúc đó chắc còn nhiều loại máy bay khác, sao anh lại chọn L19?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Lúc đó chỉ còn duy nhất chiếc L19.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Ngoài L19, anh còn lái được loại máy bay nào khác?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi cũng lái được loại AD5, AD6 và Cessna, nhưng không lái thường xuyên như L19.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Vậy khi gặp HKMH, anh làm gì?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Thì tôi xin nó cho mình đáp xuống, nhưng khổ nỗi trên máy bay của tôi không có vô tuyến để liên lạc với dưới HKMH, nên tôi cứ bay vòng vòng xung quanh nó và dùng các phương pháp mình đã học để áp dụng cho nó hiểu là mình xin đáp, nhưng chẳng thấy dấu hiệu trả lời!<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Xin anh đơn cử một trong những phương pháp xin đáp?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi chớp đèn đáp liên tục.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Rồi sao nữa anh?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi nghĩ ra cách, viết cái “note” cho họ hiểu là tôi xin đáp. Đầu tiên tôi cột vào con dao và bay sát HKMH, tôi mở cửa liệng dao xuống. Nó đụng sàn tàu, tưng lên rơi xuống biển. Sau đó tôi làm cái thứ hai, thứ ba, cột vào dây súng thảy xuống, cũng rơi luôn xuống biển. Lần thứ tư, tôi cột vào khẩu P. 38, bay thật thấp và liệng xuống. Lạy Trời, lần này không xuống biển. Tôi nhìn thấy một anh chàng chạy lại lượm lên coi và chạy biến đi, không biết đi đâu. Sau khi xuống tàu, được biết, khi họ lượm và đọc cái note của tôi, họ chạy ngay lên báo cho Hạm Trưởng.<br /><br /><br /><br /><center><img src="http://www.viendongdaily.com/images/galary/VietNamHaiNgoai/@2010/@Mar10/LyBung/BungLee1.Note.jpg" width="600" /></center><br /><span style="color:#002060;">Một trang bản đồ được Phi Công Lý Bửng xé ra ghi note liệng xuống HKMH. Mảnh giấy này được lưu giữ trên USS Midway - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.</span><br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Trước khi trên HKMH họ lượm được cái note của anh, liệu họ có sợ máy bay khủng bố không, vì anh cứ bay vòng vòng quanh họ và lại bay rất thấp?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Không đâu, họ có ống dòm tối tân, họ nhìn thấy hết chứ.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Sau khi lượm được note của anh, họ có ra dấu OK cho anh đáp không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi bay mấy vòng nữa quan sát, thì thấy họ đang dọn dẹp mấy chiếc trực thăng đậu trên phi đạo cho gọn lại, lúc đó tôi biết họ OK cho mình xuống.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Trong suốt thời gian là phi công, đã có lần nào anh hạ cánh trên hàng không mẫu hạm chưa?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Chưa.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Nhưng đã có lần nào anh phải hạ cánh xuống một phi đạo ngắn như trên HKMH?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Có chứ, nhưng trên đất liền, đỡ nguy hiểm hơn.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Chắc anh biết, phi đạo trên HKMH không có những dụng cụ chuẩn bị cho loại L19 đáp chứ?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Biết chứ. Họ chỉ trang bị lưới và móc để giữ các loại máy bay phản lực khi đáp xuống, không dự trù cho trườøng hợp của tôi.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Khi biết trước như vậy mà anh còn cố đáp xuống, anh có nghĩ là quá liều lĩnh không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Dĩ nhiên là liều mạng rồi, vì không đáp xuống HKMH thì phải đáp xuống biển thôi.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Vậy trước khi quyết định hạ cánh, tâm trạng anh ra sao?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Nếu bây giờ tôi còn nhớ được tâm trạng lúc đó ra sao thì tôi thành Superman rồi chú ạ.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Ồ, em quên, ông anh cho biết trên máy bay L19, ông anh chở những ai?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Máy bay L19 chỉ có một chỗ cho hoa tiêu, một chỗ cho ông quan sát, nhưng tôi chơi luôn 7 mạng, tôi, vợ và 5 đứa con. Chính điều này làm người Mỹ rất sợ, vì chở quá trọng tải!<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Khi bay, anh có cho chị và mấy cháu biết là sắp đáp xuống HKMH không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Không. Cho bả biết, bả và mấy đứa nhỏ sợ thì hỏng chuyện.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Trước khi hạ cánh, anh có tin tưởng sẽ đáp xuống an toàn không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tin chứ, không tin sao dám đáp?<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Lúc máy bay của anh dừng trên HKMH, mũi tàu còn khoảng cách bao xa thì lọt xuống biển?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Lúc đó mừng quá rồi ai mà nhớ, nhưng tôi nghĩ cũng còn một khoảng cách ngắn nữa.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Làm sao một phi đạo ngắn như vậy, anh đáp xuống được?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Khi máy bay vừa chạm sàn tàu, tôi tắt máy ngay, đó là nguyên tắc đáp ngắn.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Khi máy bay của anh hạ cánh an toàn, chuyện gì xảy ra?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Ôi, họ túm lại bồng tôi rồi bồng vợ, con tôi ra. Họ ríu rít hỏi han và tỏ ý rất khâm phục, họ dẫn chúng tôi lại gặp Hạm Trưởng, sau đó một Hạm Trưởng ở chiếc khác hay tin cũng bay đến gặp tôi chúc mừng. Người Mỹ họ rất cảm phục mình, thứ nhất là máy bay chở quá mức, thứ hai là dám đáp xuống HKMH bằng L19 và thứ ba là không có vô tuyến liên lạc.<br /><br /><br /><br /><center><img src="http://www.viendongdaily.com/images/galary/VietNamHaiNgoai/@2010/@Mar10/LyBung/BungLee3.Interview.jpg" width="600" /></center><br /><span style="color:#002060;">Các phóng viên ngoại quốc phỏng vấn Thiếu Tá Phi Công Lý Bửng - ảnh: Thiếu Tá Lý Bửng cung cấp.<br /></span><br /><b>Viễn Đông</b>: Sau đó họ đưa anh và gia đình đi đâu?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Họ tiếp đãi rất nồng hậu, sau đó chuyển qua một chiếc tàu thương mại chở qua Subic Bay (Phi Luật Tân). Ở đó 1, 2 đêm, rồi họ chở về Guam và rồi từ Guam qua đây.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Sau đó, chiếc máy bay L19 do anh lái họ để ở đâu?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Chiếc L19 tôi lái là chiếc máy bay duy nhất được đem toàn vẹn qua Hoa Kỳ và trưng bày trong Bảo Tàng Viện Hải Quân của tiểu bang Florida.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Từ đó đến nay, đã có lần nào anh tới nhìn lại chiếc L19 đó, và nếu có thì cảm nghĩ của anh như thế nào?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Tôi có đến xem và thấy vẫn nguyên vẹn, còn cảm nghĩ thì mình cám ơn nó đã giúp đưa mình đến HKMH an toàn.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Vào ngày 30-4 sắp tới, nghe nói Ban Tổ chức có mời anh qua dự?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Đúng, họ có mời tôi.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Giả sử họ trao cho anh một chiếc L19 và yêu cầu anh bay biểu diễn rồi đáp xuống USS Midway một lần nữa cho bà con coi chơi, anh có dám không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Dám chớ sao không? Làm thì làm chớ. Lâu quá rồi, với lại mình già rồi nhưng chắc cũng không đến nỗi tệ, vì quen như mình cầm đũa ăn cơm vậy mà!<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Phục ông anh lắm. Vậy năm người con của anh, có ai nối nghiệp bố không anh?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Không, tụi nó nói: “Bố gan quá! Tụi con không dám!”.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thế còn chị nhà, từ sau khi anh hạ cánh an toàn trên HKMH đến nay, có khi nào chị nhắc lại chuyện cũ và tưởng thưởng cho anh không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Bả nói, sao mà đưa bả qua đây làm chi? Còn thưởng thì thưởng lâu rồi! Riêng mấy bà bạn bả hỏi thì bả nói: Ổng làm cái gì thì ổng làm, chứ tôi có biết gì đâu!<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Còn người Mỹ thì sao? Họ có gặp anh phỏng vấn không?<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Mỹ thì họ làm hoài đó chứ. Lần nào họ viết bài họ cũng nói họ rất khâm phục phi công VNCH, gan dạ cùng mình.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Tại sao lần này họ tổ chức 30-4 trên USS Midway?<br /><br /><br /><center><img src="http://www.viendongdaily.com/images/galary/VietNamHaiNgoai/@2010/@Mar10/LyBung/BungLee-USS-Midway-Bird-Dog.jpg" width="600" /></center><br /><br /><i><span style="background-color: rgb(255, 255, 255);" >Chiếc “Bird Dog” L19 vừa được treo lên triển lãm tại Bảo Tàng Viện USS Midway, chuẩn bị mở cửa vào ngày 30-4-2010 sắp tới – ảnh: Bảo Tàng Viện USS Midway cung cấp.</span></i><br /><br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Chiếc USS Midway này đã quá cũ nên chính phủ Mỹ đưa qua San Diego, biến nó thành cái Bảo Tàng Viện như một chứng tích của cuộc chiến. Trong đó một phần cũng do cái chuyện đáp L19 của tôi làm cho nhiều người tò mò đến xem, nên họ đã làm một cái L19 khác giống như chiếc tôi lái và để trên HKMH cho du khách xem, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam.<br /><br /><b>Viễn Đông</b>: Thôi, làm phiền anh vậy đủ rồi, cám ơn anh và mong gặp anh ngày 30-4 trên USS Midway.<br /><b>Th/Tá Lý Bửng</b>: Cám ơn chú.<br /><br />Thanh Phong/Viễn ĐôngSQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-10813036267194876822010-03-30T23:06:00.001-07:002010-03-30T23:10:17.351-07:00ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ NHÂN NGÀY QUỐC HẬN LẦN THỨ 35<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwGlGiCjqmygIXzTf6sQ0Rrzx9OK858zxUfyyqKew872ZydwFk8JM6kQvRnP7HG_DxbLPRxWWn6CfZEsc0Y_DCQXaeFoYdLo7zxcE071xGP5GS7peeNwEtFEcHJnZRZZ7O140hfSWl35w/s1600/3April1975SouthChinaSea.jpg"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 478px; height: 311px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwGlGiCjqmygIXzTf6sQ0Rrzx9OK858zxUfyyqKew872ZydwFk8JM6kQvRnP7HG_DxbLPRxWWn6CfZEsc0Y_DCQXaeFoYdLo7zxcE071xGP5GS7peeNwEtFEcHJnZRZZ7O140hfSWl35w/s400/3April1975SouthChinaSea.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5454676026065233090" border="0" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg1Ie_ZEtuew4jxcYDTZCqC9rNJPyFGLJw9URGUeqEbt2mVKfI_8I4Nyde7X1EaJyxzf_d5LCJUzB6WA8m_Wp-ba6uWX8tZTBeR4naHRR8vs5h2FEgEC3jDv4-9IDuf3aMWqaLRHpjOND8/s1600/thuongbinhvnchcut2chanApril2nd1975.jpg"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 400px; height: 267px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg1Ie_ZEtuew4jxcYDTZCqC9rNJPyFGLJw9URGUeqEbt2mVKfI_8I4Nyde7X1EaJyxzf_d5LCJUzB6WA8m_Wp-ba6uWX8tZTBeR4naHRR8vs5h2FEgEC3jDv4-9IDuf3aMWqaLRHpjOND8/s400/thuongbinhvnchcut2chanApril2nd1975.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5454675839019665330" border="0" /></a> (30 THÁNG 4 NĂM 2010) Nguyễn Quốc Đống - Tháng 3, 2010 <div> </div> <div>1-Việc tổ chức Lễ Quốc Hận 30 tháng 4 hàng năm vẫn được các cộng đồng người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại coi trọng vì đây là một sự kiện chính trị quan trọng trong công đồng những người Việt nạn nhân của Cộng Sản Việt Nam đã phải bỏ nước ra đi vì không sống nổi trong một thể chế độc tài đảng trị đã tước đi tất cả các quyền tự do cơ bản của người dân, không tôn trọng nhân quyền. Sự kiện này xác nhận căn cước tỵ nạn của chúng ta và đặt ra một lằn ranh quốc-cộng rõ rệt giữa chúng ta, nạn nhân của CSVN và đảng CSVN, kẻ thủ ác đã khiến bao đồng đội của chúng ta ngã gục trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do chống Bắc quân CS xâm lược. CSVN rất sợ các cuộc tập họp quần chúng đông đảo trong ngày này vì đây là dịp tội ác của chúng bị đồng hương tỵ nạn CS một lần nữa bị nêu ra trước dư luận đồng bào tại hải ngoại cũng như trong nước. Chúng cũng sợ hãi các hình thức tưởng niệm “quốc hận” trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại hàng năm vào ngày 30 tháng 4 vì các hoạt động như vậy chứng tỏ người Việt tại hải ngoại không quên tội ác của chúng, cương quyết không hòa hợp, hòa giải với kẻ thủ ác, tội đồ của dân tộc. Các buổi lễ kỷ niệm quốc hận nếu được tổ chức đúng yêu cầu sẽ làm mất “hào quang chiến thắng giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho toàn dân” mà CSVN thường rêu rao bao năm để đánh lừa người dân Việt và cộng đồng quốc tế.</div> <div> 2- Ban Tổ Chức Lễ Kỷ Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 tại bất cứ một địa phương nào không thể quên những mục tiêu then chốt sau đây : </div> <div> Thứ nhất: Vạch trần tội ác của Cộng Sản đối với đất nước và người dân VN: </div> <div>- Tội tiến hành chiến tranh đẫm máu xâm lược miền Nam tự do, dân chủ khiến nhiều triệu đồng bào miền Nam quân và dân đã mất mạng</div> <div>.- Tội thiết lập một chế độ trả thù khắc nghiệt khiến cả trăm ngàn quân, cán, chính VNCH phải bị giam tù và đầy đọa nhiều năm tại các trại tù tập trung “cải tạo” của CS.</div> <div>- Tội thi hành chính sách khắc nghiệt với dân chúng miền Nam khiến họ phải liều chết ra đi và khoảng 600,000 người phải bị mất mạng trong rừng sâu hay ngoài biển cả khi vượt biên, vượt biển trong các thập niên 70 và 80 của thế kỷ 20.</div> <div>- Tội thiết lập một chế độ độc tài, đảng trị trên toàn nước VN sau 30 tháng 4 khiến người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ và không còn được tham gia vào việc quyết định vận mạng chính trị cho chính mình và đất nước. </div> <div> Kết quả là ngày nay các đảng viên CS, giới có quyền duy nhất tại VN đang tự do dâng đất và biển của quê hương cho Tàu Cộng.Các tộc ác của CS không giảm bớt mà càng ngày càng gia tăng khiến đất nước Việt nam đang trên bờ vực thẳm bị diệt vong. Người dân có ý thức được hiểm họa này nhưng không có khả năng ngăn chận. </div> <div>Thứ hai: Tưởng niệm và tri ân các anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân trong cuộc chiến tự vệ của miền Nam VN chống Bắc quân CS xâm lược. Chúng ta nên tránh dùng chữ “liệt sĩ” vì đây là từ CSVN thường dùng để vinh danh các cán bộ và bộ đội của chúng đã chết trong cuộc chiến do chúng tiến hành tại VN. Chúng ta cũng tưởng niệm tất cả các quân cán chính VNCH bị chết vì bị CS giam tù hành quyết trong các trại tù CS, các đồng bào bị chết trên đường vượt biên và vượt biển. Họ chính là những người chết vì lý tưởng tự do, dân chủ, làm sáng danh chính nghĩa của chúng ta nên cần được nhớ ơn và tưởng niệm. </div> <div>Thứ ba: Tạo cơ hội và điều kiện cho giới trẻ học hỏi các tấm gương sáng của các thế hệ đi trước để tiếp tục công việc của chúng ta. Họ cần ý thức được căn cước tỵ nạn của cha anh, của chính họ, của cộng đồng để nuôi dưỡng một ý thức hệ trọng. Đó là ý thức “cần phải tiếp nối truyền thống tranh đấu cho tự do, dân chủ của các thế hệ đi trước”. </div> <div> Có như vậy họ mới xác định được chỗ đứng, vị trí và trách nhiệm của họ trong cộng đồng, đồng thời sẵn sàng đảm nhiệm vai trò lịch sử của mình. Công việc tranh đấu cho tự do, dân chủ của chúng ta không thể nào thành công nếu chúng ta không có kế hoạch giáo dục giới trẻ để họ đi đúng hướng và tiếp nối công việc còn bỏ dở của chúng ta. Giới trẻ không được hướng dẫn đúng đắn sẽ dễ dàng bị kẻ thù CSVN lung lạc, lợi dụng cho mục tiêu đen tối của chúng. Chúng ta không thể để mất giới trẻ trong cộng đồng tỵ nạn vào tay đối phương trong “cuộc chiến một mất một còn” hiện nay đang diễn ra giữa chúng ta và CS, giữa thiện và ác, giữa dân chủ và độc tài.</div> <div> 3- Đã từ lâu CSVN luôn tìm cách lợi dụng để làm biến thái ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Chúng rất muốn mọi người quên đi khía cạnh bi thương của ngày 30 tháng 4 để tội ác của chúng được từ từ xóa nhòa. Nếu chúng ta quên mất mục đích này của kẻ thù là chúng ta rơi vào bẫy của chúng . Vô tình chúng ta sẽ khiến công sức của chính mình giúp cho CS đạt mục tiêu của chúng. Chính vì thế tại nhiều websites trên diễn đàn internet chúng ta vẫn thấy có những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta?!..."Thế rồi có người lại đề nghị ta nên tổ chức các mục vui cho giới trẻ vào ngày này. Đây quả thực là một cái bẫy rất nguy hiểm do kẻ thù của chúng ta giăng ra. CSVN và tay sai không ngừng lợi dụng các sơ hở của chúng ta để đạt mục đích của chúng. Chính vì thế các vị lãnh đạo trong cộng đồng những người Việt tỵ nạn Cộng Sản cần thận trọng đừng để CS lợi dụng cho mục tiêu riêng của chúng. Nếu không thận trọng, người tỵ nạn CS chúng ta sẽ mắc bẫy kẻ thù và vô tình sẽ làm lợi cho sự tuyên truyền xảo trá của chúng. </div> <div>Hẳn chúng ta vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra nhân Ngày Quốc Hận 30-4 năm 2005. Để kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 30 (30-4 -2005), 4 tổ chức có tên dưới đây đã đưa ra “Kế hoạch tổ chức Ngày Tự Do cho Việt Nam” vào ngày 30 tháng 4 năm 2005 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn:</div> <div><span style="color: rgb(127, 63, 0);font-size:130%;" ><strong><u>1- Ủy Ban Vận Động Chính Trị Người Mỹ gốc Việt</u></strong></span></div> <div><span style="color: rgb(127, 63, 0);font-size:130%;" ><strong><u>2- Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ</u></strong></span></div> <div><span style="color: rgb(127, 63, 0);font-size:130%;" ><strong><u>3- Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường</u></strong></span></div> <div><span style="color: rgb(127, 63, 0);font-size:130%;" ><strong><u>4- Tổng Hội Sinh Viên Việt nam tại Bắc Mỹ</u></strong></span> </div> <div>Đồng hương người Việt tỵ nạn CS tại nhiều nơi rất ngạc nhiên về việc 4 tổ chức nói trên chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” vì các lý do sau đây:</div> <div>- Ngày 30 tháng 4 hàng năm là Ngày Quốc Hận đối với người dân miền Nam Việt Nam và nhất là đối với các đồng bào đã phải rời bỏ quê hương Việt Nam ra đi tỵ nạn CS sau khi miền Nam tự do rơi vào tay Bắc quân CS xâm lược. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS vẫn gọi tháng 4 hàng năm là tháng 4 Đen để đánh dấu ngày lịch sử Việt Nam bước sang 1 trang sử vô cùng đen tối, ngày bắt đầu 1 thảm họa cho toàn dân tộc Việt.</div> <div>- Việc chọn ngày 30 tháng 4 làm “Ngày Tự Do cho Việt Nam” (hay là Ngày Tranh Đấu cho Tự Do của Việt Nam) cũng dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại. Trong nước, Cộng Sản Việt Nam coi đây là một ngày lễ lớn. Chúng vẫn cho tổ chức các lễ hội linh đình để ăn mừng “ngày chiến thắng” của chúng, ngày chúng “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ, Ngụy, đem lại tự do cho toàn dân Việt Nam”. Nếu chúng ta cũng chọn ngày này để ăn mừng một điều gì đó thì chúng ta “cũng như Việt Cộng tổ chức lễ hội ăn mừng vào ngày 30-4” ư?. Vậy chúng ta ăn mừng cái gì vào ngày “nước mất, nhà tan này”? Chẳng lẽ chúng ta ăn mừng “ngày các vị tướng miền Nam tuẫn tiết, ngày các chiến sĩ anh hùng của quân lực VNCH vị quốc vong thân, ngày khiến cho bao chiến sĩ Quân Lực VNCH và viên chức chính quyền miền Nam bị dồn vào các trại tù cải tạo, ngày khởi đầu của trang sử vượt biên, vượt biển đầy máu và nước mắt…”? Hay chúng ta ăn mừng “ngày chúng ta thoát khỏi đất nước bất hạnh của chúng ta và có được cơ hội hưởng đời sống tự do tại các nước tạm dung trong thế giới tự do”? Xin chúng ta đừng quên chỉ có một thiểu số rất nhỏ vì may mắn mới thoát được gông cùm CS và đang sống đời tự do tại các quốc gia dân chủ ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc …(khoảng 3 triệu người). Số còn lại, 85 triệu người vẫn còn đang sống khốn khổ vì mất tự do tại quê nhà. </div> <div>Vả lại nếu chúng ta chọn ngày 30 tháng 4 để ăn mừng “tự do” thì chúng ta “hận” ai trong ngày này, không lẽ “hận Việt Cộng đã cho ta có dịp hưởng thứ tự do “số một” tại những cường quốc như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Tân Tây Lan…? Việc tổ chức “quốc hận” cho đồng hương như vậy sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa. </div> <div>Ý thức được sự tai hại của kế hoạch này, nhiều tổ chức cộng đồng khắp nơi trên thế giới tự do đã phản kháng quyết liệt (tổ chức Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Minnesota, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại tiểu bang Georgia, các thành viên của Khối Lập Trường Chung do cố Đại Tá Hoàng Đạo Thế Kiệt lãnh đạo…). </div> <div><strong><u>Kết quả là kế hoạch tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam “ của các tổ chức nói trên tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã không thể thi hành được như đã định</u></strong>. Sau cùng Ban Tổ Chức <strong>đã phải đổi lại “ <em><span style="color: rgb(96, 0, 191);">Ngày Tự Do cho Việt Nam</span></em>” thành “<em><u><span style="color: rgb(96, 0, 191);">Ngày Tranh Đấu cho tự do của Việt Nam”.</span></u></em></strong> </div> <div>Họ cũng phải hủy bỏ các chương trình vinh danh các tổ chức cộng đồng vận động thành công các nghị quyết công nhận cờ VNCH, các chương trình văn nghệ có mặt các ca sĩ nổi tiếng để “ăn mừng tự do”?! Những năm sau đó người Việt tỵ nạn CS không còn thấy các hình thức “ăn mừng một cái gì đó vào ngày quốc hận 30 tháng 4” nữa. </div> <div>Sự sáng suốt của các đồng hương tỵ nạn Cộng Sản giúp chúng ta không sa vào bẫy của CSVN muốn biến thái ý nghĩa <span style="font-size:130%;"><strong><u>“Ngày Quốc Hận”,(VC)</u></strong></span> <strong>muốn chúng ta <span style="font-size:130%;"><u>thôi “căm hận</u></span></strong><span style="font-size:130%;"><u>”</u></span> vào ngày này mà nên thay đổi trạng thái tâm lý, nên vui và nên quên buồn. </div> <div>CSVN chưa thành công trong mục tiêu này của chúng vì trong thời gian qua, nhìn vào các lễ tưởng niệm Quốc Hận tại các cộng đồng có đông người Việt nạn nhân CS cư ngụ, đa số chúng ta thấy Ban Tổ Chức dành nhiều thời gian vào việc </div> <div><strong><span style="color: rgb(255, 0, 0);font-size:130%;" >- tố cáo tội ác của CS, </span></strong></div> <div><strong><span style="color: rgb(255, 0, 0);font-size:130%;" >- vinh danh các anh hùng vị quốc vong thân, </span></strong></div> <div><strong><span style="color: rgb(255, 0, 0);font-size:130%;" >- vinh danh các đồng bào vì lý tưởng tự do, dân chủ mà phải bỏ mình trên khắp các nẻo đường đất nước, trong rừng sâu hay trên biển cả mênh mông.</span></strong> </div> <div>Đồng hương đến dự Quốc Hận không than khóc cho các cái chết của các anh hùng tử sĩ. Chết vì nước là cái chết anh hùng, vinh dự nhất. Họ cần chúng ta noi gương họ để tiếp tục hy sinh tranh đấu cho nền tự do đích thực của dân tộc chứ không cần chúng ta khóc thương cái chết của họ. Chúng ta nên suy nghĩ để có thái độ thích đáng trong vai trò những người kế thừa sự nghiệp của họ. </div> <div>Việc nhắc lại một sự kiện đã xảy ra vào ngày quốc hận cách đây 5 năm không ngoài mục đích để chúng ta cảnh giác đối với âm mưu thâm độc của kẻ thù CS. Chúng vẫn không từ bỏ mục đích tối hậu của chúng là “làm chúng ta quên mối hận mất nước vào ngày 30-4”, khiến chúng ta từ từ vui cái vui của chúng, và với thời gian mọi chuyện sẽ bị xóa nhòa. <strong>Chúng (tay sai VC) kêu gọi người Việt khắp nơi:</strong> </div> <div><span style="color: rgb(96, 0, 191);font-size:130%;" ><strong><u>“hãy quên quá khứ, bỏ qua mọi phân biệt chính trị, mọi khác biệt giữa chế độ cũ và chế độ mới, nối vòng tay lớn để chấp nhận cả những kẻ thủ ác, để thực hiện việc “hòa hợp, hòa giải dân tộc”, để bắt tay vào công việc lớn là “xây dựng quê hương</u></strong></span>”… </div> <div>Hiện nay, tại một số các websites trên diễn đàn internet, chúng ta vẫn còn thấy những đề nghị “không nên khóc than, sầu hận trong ngày 30-4, CSVN ăn mừng chiến thắng, tại sao ta lại kém chúng, ta cũng có cái đáng để chúng ta ăn mừng chứ, ta có tự do, tại sao lại không thể ăn mừng tự do của chúng ta…?!” </div> <div>Là nạn nhân của CS đã từng bị chúng xua đuổi ra khỏi quê hương và tìm cách bức hại trăm chiều, chúng ta không thể quên các sự kiện lịch sử để rồi bị mắc bẫy của chúng. <span style="color: rgb(255, 0, 0);font-size:130%;" ><strong><u>Chúng ta hãy tổ chức Ngày Quốc Hận 30-4 một cách đúng nghĩa để tội ác của chúng phải bị phơi bày trước công luận toàn thế giới, để không còn ai bị chúng đánh lừa, để mọi người đều thấy rằng 30 tháng 4 không phải chỉ là Ngày Quốc Hận của quân, dân miền Nam mà phài là Ngày Quốc Hận của toàn dân Việt Nam vì đây là ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức đặt ách đô hộ lên toàn thể dân tộc Việt nam</u></strong></span>. </div> <div> Đây là ngày chúng chiếm được toàn nước Việt Nam, giành được quyền tối thượng đối với sinh mạng 85 triệu người Việt Nam, giành được quyền cho thuê hay bán đi giang sơn gấm vóc của dân tộc VN cho ngoại bang hầu thiết lập một chế độ chủ-nô trong thời đại mới, một chế độ độc tài, toàn trị lâu đời để đảng viên CS và gia đình chúng có thể sống xa hoa trên đầu, trên cổ người dân thường, những người luôn phải sống trong lầm than, nghèo đói, không tự do, dân chủ và nhân quyền. </div> Chỉ khi nào chế độ CSVN bị giải thể và Đảng CSVN bị giải tán, thì nỗi “quốc hận” của chúng ta mới tan được và đó sẽ là ngày chúng ta ăn mừng tự do của toàn dân, vui trọn vẹn cái vui của mọi người dân Việt trong nước cũng như tại hải ngoại.<br /><br />" <span style="font-size:130%;"><strong><em><u>Có trung hiếu nên ðứng trong trời ðất</u></em></strong></span>" NCTSQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-75737062507539938192010-03-03T10:24:00.001-08:002010-03-03T18:53:00.611-08:00<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXyt-Uus_IwU_cM-rr-BnqkHzAUa2mtWUgq-UH1pw8nNuEYl1P_7NFKFjgQNgdvW2FxRZOYTRGDCP_0PHQBzGbQkVkGcLZwKLsBH_k-mMkTlKqg5VoIahVlfuYiTxkFXKLqU_7o1dmUJw/s1600-h/midway2vietnam.JPG"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444511916384176898" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 327px; height: 400px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjXyt-Uus_IwU_cM-rr-BnqkHzAUa2mtWUgq-UH1pw8nNuEYl1P_7NFKFjgQNgdvW2FxRZOYTRGDCP_0PHQBzGbQkVkGcLZwKLsBH_k-mMkTlKqg5VoIahVlfuYiTxkFXKLqU_7o1dmUJw/s400/midway2vietnam.JPG" border="0" /></a><strong><br /><object width="425" height="344"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/FvlyapfqJyg&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/FvlyapfqJyg&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="425" height="344"></embed></object><br />Honoring the 35th Anniversary of April 30, 1975 Celebrating Freedom in America<br />Join us on April 30, 2010 to honor a very important day in the USS Midway's and Vietnam's history. </strong><br /><strong>It is the 35th anniversary of Operation Frequent Wind, the humanitarian mission when USS Midway sailors rescued more than 3,000 Vietnamese refugees fleeing the fall of Saigon.<br />The general public is invited to a special ceremony at 12 noon on the flight deck, featuring the 1975 captain of Midway, Larry Chambers, and the 1975 air boss of Midway, Vern Jumper, plus Vietnamese performances and entertainment.<br /></strong><a href="http://www.midway.org/ofw#General" jquery1267649853581="3">Buy Individual Tickets Here </a><a href="http://www.midway.org/Pre-Paid%20Discount%20Tickets">Group Tickets Available Here (Scroll Down)</a><br /><a href="http://www.midway.org/files/Frequent%20Wind%20Public%20Event%20Flier%20%28English%20%26%20Vietnamese%29_0.pdf"></a><a href="http://www.midway.org/files/visit/Operation%20Frequent%20Wind%20Public%20Event%20Flier%20%28English%20%26%20Vietnamese%29.pdf">Complete Event Info andSpecial Ticket Opportunity Here!(English & Vietnamese)</a><a href="http://www.midway.org/files/Frequent%20Wind%20Public%20Event%20Flier%20%28English%20%26%20Vietnamese%29_0.pdf"></a><br /><a href="http://arestravel.com/77_package-info_p4730.html">Travel Package #1</a><a href="http://arestravel.com/77_package-info_p4731.html">Travel Package #2</a><a href="http://arestravel.com/77_package-info_p4728.html">Travel Package #3</a><br /><br /><em>News Media Resources<br />USS Midway Museum Fact Sheet<br />Vision To become the nation’s West Coast symbol of American strength, freedom and peace as a naval aviation museum.<br />Download </em><a href="http://www.midway.org/node/114/"><em>Media Photos</em></a><br /><em>Historical Perspective Commissioned a week after the end of World War II, the USS Midway embarked on an unprecedented 47-year odyssey that set new standards in naval aviation. More than 225,000 Americans took part in the odyssey that ended after Midway served as the Persian Gulf flagship in Desert Storm. Longest-serving U.S. Navy carrier of the 20th century and largest ship in the world, 1945-1955.<br />Features<br />Self-guided audio tour featuring Midway veterans as narrators included with each admission. Available in English, Spanish and Japanese. Sample clips from the audio tour:<br />Life at Sea<br />13,500 Meals a Day<br />A Stay in the Brig<br />SBD Pilot Memories<br />Optional flight simulators ($6-$30). Options include motion simulation on a Desert Storm mission and Strike Fighter 360 which features pilot-controlled rolls, spins and somersaults while flying a mission.<br />A youth sleepover program for non-profit youth organizations<br />Comprehensive education program in Midway University, hosting more than 30,000 K-12 students annual with curriculum-sanctioned, hands-on math and science labs and field trip activities<br />Highlights<br />More than 60 exhibits from boiler to bridge, including 25 restored aircraft<br />Virtual video tour for limited-access exhibits<br />Elevator access onto the ship and to second deck and flight deck<br />Interactive videos, climb-aboard aircraft, ejection-seat theatre<br />Café<br />Gift Shop<br />Early-bird docent-led tours<br />Wheelchair Access: elevators available from Navy Pier to hangar deck, second deck and flight deck. Virtual video tour of limited-access exhibits shown continuously on the flight deck.<br />Parking: Paid parking available on Navy Pier; public transit stops are only 3 blocks away<br />Awards & Recognition<br />Most-visited floating ship museum in the world: 4.1 million visitors in 5 years (2004-2009).<br />First museum in the country to receive the Preserve America Presidential Award in a Rose Garden Ceremony<br />Included in msn.com’s “Top 50 Museums of America”<br />Called the “gold standard of aircraft carrier museums” by The Boston Globe<br />Seen on: History Channel, Discovery Channel, Travel Channel, FOX’s Hannity & Colmes, Monday Night Football, Australia’s “Today Show,” among other<br />Special Events<br />More than 100,000 square feet available.<br />2005 Event Venue of the Year in a national meeting planner poll<br />285 events held in 2007, reservations accepted up to three years in advance<br />Location & Hours<br />910 North Harbor Drive, San Diego, CA 92101 (alongside Navy Pier)<br />Hours: 10 a.m. to 5 p.m. daily, (Thanksgiving and Christmas excepted)Ticket booth closes at 4 p.m.<br />Admission<br />$18 adults<br />$15 Seniors 62+ and Students with ID<br />$10 Retired military with ID<br />$10 Youth 6-17<br />5 and under free<br />All active-duty military/reservists free with ID<br />For More Information</em><br /><em>Scott McGaughMarketing Director(619) 398-8250</em><br /><a href="mailto:smcgaugh@midway.org"><em>smcgaugh@midway.org</em></a><br /><br /><div><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUQt9uTabdX36sISyXjG5qgt5IMyE6Pi_2KUj3NFI4DS7e2CchfpxvrYWLa0y6MNgERo19cFlOngzyL65k9uuQwUTeNkdVFxRdf56j-0xemAq3SFYDcC19OoGPacMKg1NUDgIew-_fVrg/s1600-h/0913023702greenvillevictory.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444503404965904082" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 400px; height: 300px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUQt9uTabdX36sISyXjG5qgt5IMyE6Pi_2KUj3NFI4DS7e2CchfpxvrYWLa0y6MNgERo19cFlOngzyL65k9uuQwUTeNkdVFxRdf56j-0xemAq3SFYDcC19OoGPacMKg1NUDgIew-_fVrg/s400/0913023702greenvillevictory.jpg" border="0" /></a><strong></strong><br /><strong><span style="color: rgb(204, 0, 0);font-size:130%;" >Notes from Robert A. Griffin</span></strong><br /><strong>Excellent - well written and factual. </strong><br /><strong>I was a crew member aboard the USNS Greenville Victory and the memories came flooding back when I read your account. While enroute to Subic Bay, we had several children born onboard and I made up documents they could use for their citizenship as being born aboard a US vessel in international waters, which made them US citizens. </strong><br /><strong>Best Regards for your future. </strong><br /><strong></strong><br /><strong>Robert A. Griffin</strong><br /><br /><div><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhezniNjMnljf8p0PlsXiT2g0g0ZCDeQqCSfeRTuP-5eKwp6diox4RXFqiwra3qlpTMlcDldkXaHTB8ifFkTwdUcIK1c_jCc5vbG3sM7CnrjYy-ezYJ01wEr-_5BKafCabg3fr2h4Wy3h0/s1600-h/0913023704greenvillevictorycrew.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444503144745727938" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 400px; height: 322px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhezniNjMnljf8p0PlsXiT2g0g0ZCDeQqCSfeRTuP-5eKwp6diox4RXFqiwra3qlpTMlcDldkXaHTB8ifFkTwdUcIK1c_jCc5vbG3sM7CnrjYy-ezYJ01wEr-_5BKafCabg3fr2h4Wy3h0/s400/0913023704greenvillevictorycrew.jpg" border="0" /></a><br /><div><div><div align="center"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6xEYoKPAaxDAzfxmoM2ErR-7PAfhctcopfED8O0LW45lhBGVS5fK81y_c7xqL4Rd5UZ-5lJLLHbM-GDORFjD5DglstyvwEK9Y8mwAMp9cdzna0kBSwi9XLZquTj90mtEJXvG3_MxO2E0/s1600-h/Americanracer2"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444498628572700754" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 400px; height: 253px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6xEYoKPAaxDAzfxmoM2ErR-7PAfhctcopfED8O0LW45lhBGVS5fK81y_c7xqL4Rd5UZ-5lJLLHbM-GDORFjD5DglstyvwEK9Y8mwAMp9cdzna0kBSwi9XLZquTj90mtEJXvG3_MxO2E0/s400/Americanracer2" border="0" /></a> In Subic Bay Philippine 1.5.1975<br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiIRFzH-u76woKVuxnKWS39lwPC8avaL-BiewJVZnXDSAcThVXIEelLNdaFNf8px281itwXFzJlodX4v_dXWxrfIhZzshJ9BQbPAH6Se3_1GsIaWrhxz7lkidphQNWFh9oczcaNKMuz0Ds/s1600-h/AmericanRacer"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444475244581320530" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 400px; height: 265px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiIRFzH-u76woKVuxnKWS39lwPC8avaL-BiewJVZnXDSAcThVXIEelLNdaFNf8px281itwXFzJlodX4v_dXWxrfIhZzshJ9BQbPAH6Se3_1GsIaWrhxz7lkidphQNWFh9oczcaNKMuz0Ds/s400/AmericanRacer" border="0" /></a> American Racer </div></div></div></div></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-10910460023598471802010-03-02T19:14:00.000-08:002010-03-02T22:54:20.960-08:00USS MIDWAY 30.4.1975 - 30.4.2010<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidEqyD1an0oUgTajre4MMo4TF91toYGPYpX9OFhG4lpKZiLj6sJcYu29Akpqno1Bcpi4AdW8RZsmu6ZRlalSmKHz_UktB_h-126XgB7gvYREfL-jMKcqvW96ckwDL8OIdDLffb_zSKKZI/s1600-h/midway1.JPG"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 327px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidEqyD1an0oUgTajre4MMo4TF91toYGPYpX9OFhG4lpKZiLj6sJcYu29Akpqno1Bcpi4AdW8RZsmu6ZRlalSmKHz_UktB_h-126XgB7gvYREfL-jMKcqvW96ckwDL8OIdDLffb_zSKKZI/s400/midway1.JPG" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444241095399376514" border="0" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhdi1HVjk06L263cEuOKRVv8IyAKjKCaw48XZ2Jdmd_WpuqQHN2q0QZcmYzBSgEYRBJGA5KgNSO1crz9iSIiMDbQh6nsHPxeTRvN-G5AAhlgH_dVw1ORlTKNBIS3Dn-aBLK182diycMKo8/s1600-h/midway2vietnam.JPG"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 327px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhdi1HVjk06L263cEuOKRVv8IyAKjKCaw48XZ2Jdmd_WpuqQHN2q0QZcmYzBSgEYRBJGA5KgNSO1crz9iSIiMDbQh6nsHPxeTRvN-G5AAhlgH_dVw1ORlTKNBIS3Dn-aBLK182diycMKo8/s400/midway2vietnam.JPG" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5444240946723292050" border="0" /></a><br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjudQZLqTD_9DNW4nBKRUKKAOAaRjhzaTCXmIci9blVftydedJ3Tdy58VV9qMopCkBG9uAmHiH6KrHGD05VloS3wL3uGg7gm_hVpKFe_vFWmEOZlsW8IcwfqmAU62K2ha6Snd_HYhIOOIs/s1600-h/nguoitynan.jpg"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 320px; height: 254px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjudQZLqTD_9DNW4nBKRUKKAOAaRjhzaTCXmIci9blVftydedJ3Tdy58VV9qMopCkBG9uAmHiH6KrHGD05VloS3wL3uGg7gm_hVpKFe_vFWmEOZlsW8IcwfqmAU62K2ha6Snd_HYhIOOIs/s320/nguoitynan.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301450305041484770" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg1OB8JTLEyBdR7Zk1nZw27TKKDzU2b8JpjbdSPrMf6keZkjgTqIjNqhKuWU8AIO6w4c-_-OXeECZ0gDKn9xKbK2En0l6zzPOOwVp6LZUK2j8LHFdT0Mbc0XO8c4hivbk_MviMhPZfV8FA/s1600-h/vn6.gif"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301074961123359074" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 162px; height: 210px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg1OB8JTLEyBdR7Zk1nZw27TKKDzU2b8JpjbdSPrMf6keZkjgTqIjNqhKuWU8AIO6w4c-_-OXeECZ0gDKn9xKbK2En0l6zzPOOwVp6LZUK2j8LHFdT0Mbc0XO8c4hivbk_MviMhPZfV8FA/s320/vn6.gif" border="0" /></a><br /><strong>DEPARTMENT OF THE NAVY -- NAVAL HISTORICAL CENTER<br />805 KIDDER BREESE SE -- WASHINGTON NAVY YARD<br />WASHINGTON DC 20374-5060<br />Chapter 5: The Final Curtain, 1973 - 1975<br /><br />During the period from 29 March 1973 to 30 April 1975, the Defense Attaché Office (DAO), Saigon, administered the American military assistance to the Republic of Vietnam. Limited by the Paris Agreement to 50 or fewer military personnel, the activity was staffed predominantly by civilians and contractors. The DAO was responsible for providing supplies and material to the 42,000-man Vietnamese Navy, which operated 672 amphibious ships and craft, 20 mine warfare vessels, 450 patrol craft, 56 service craft, and 242 junks. The quality of personnel in the naval service remained adequate over the two-year period. A drastic cut in U.S. financial support, however, hurt the navy's overall readiness. The U.S. Congress appropriated only $700 million for fiscal year 1975, forcing the Vietnamese Navy to reduce its overall operations by 50 percent and its river combat and patrol activities by 70 percent. To conserve scarce ammunition and fuel, Saigon laid up over 600 river and harbor craft and 22 ships. The enemy did not target the waterways during 1973 and 1974, but such would not be the case in 1975 when the coastal areas of South Vietnam became the war's main operational theater.<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhI7JQkfOR-urShcRyoCIkYjQCihVOOCY_dK49ysffUF4pG_Bbi-PpJE0B9Rug5zgIRp4b6-7LJxcfafEVoYIp4b4HumOZFKOl5DeJienzHy3zrLqu1HUGWcnVQcOj2dKFOE_pVqWDKjFc/s1600-h/014.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301254939178501058" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 181px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhI7JQkfOR-urShcRyoCIkYjQCihVOOCY_dK49ysffUF4pG_Bbi-PpJE0B9Rug5zgIRp4b6-7LJxcfafEVoYIp4b4HumOZFKOl5DeJienzHy3zrLqu1HUGWcnVQcOj2dKFOE_pVqWDKjFc/s320/014.jpg" border="0" /></a><br /><br />Naval Evacuation of I and II Corps<br /><br />The final test of strength between the Republic of Vietnam and its Communist antagonists that many observers had long predicted occurred in the early months of 1975. Seeking to erode the government's military position in the vulnerable II Corps area, on 10 March Communist forces attacked Ban Me Thuot, the capital of isolated Darlac Province, and routed the South Vietnamese troops there. The debacle convinced President Nguyen Van Thieu that even the strategic Pleiku and Kontum Provinces to the north could not be held and must be evacuated. Accordingly, on the fifteenth, government forces and thousands of civilian refugees began an exodus toward Tuy Hoa on the coast but that degenerated into a panicked flight when the enemy interdicted the main road. The enemy dispersed or destroyed many of the South Vietnamese II Corps units in this catastrophe.<br /><br />These events set off a chain reaction as the demoralized South Vietnamese troops abandoned port after port along the South Vietnamese coast to swiftly advancing North Vietnamese forces. Learning of the disaster in II Corps and confused by contradictory deployment orders from Saigon, the defenders of I Corps also began to crack. Giving up Hue on 25 March, Vietnamese troops retreated in disorder toward Danang. The Vietnamese Navy rescued thousands of men cut off on the coast southeast of Hue, but heavy weather and the general confusion limited the sealift's effectiveness. On the previous day (24 March) government units evacuated Tam Ky and Quang Ngai in southern I Corps and also streamed toward Danang. Simultaneously, the navy transported elements of the 2d Division from Chu Lai to Re Island 20 miles offshore. With five North Vietnamese divisions pressing the remnants of the South Vietnamese armed forces and hundreds of thousands of refugees into Danang, order in the city disintegrated. Looting, arson, and riot ruled the city as over two million people sought a way out of the ever-closing trap.<br /><br />During this period of growing chaos in South Vietnam, the U.S. Navy readied for evacuation operations. On 24 March, the Military Sealift Command (MSC), formerly the Military Sea Transportation Service, dispatched the following tugs, pulling a total of six barges, from Vung Tau toward Danang:<br /><br />Asiatic Stamina<br />Chitose Maru<br />Osceola<br />Pawnee<br />Shibaura Maru<br /><br />On 25 March, the following ships were alerted for imminent evacuation operations in South Vietnam:<br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjy16e5wXlYCLoEKpLEdc3G3tGpDXNHH-oEdnPEgqCxCuDEgMnqHc7AkxxboEs6TG6XUXk2hdhVZYJTC_tlYDD_cuu_mL1B3snOcSVtuQuljbZ4HjaxlbnW30Hol1HWEEIFvnkGUy3oVyo/s1600-h/l_795b1ac2714f62c1a223583621354e0f.jpeg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301262382620977442" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 212px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjy16e5wXlYCLoEKpLEdc3G3tGpDXNHH-oEdnPEgqCxCuDEgMnqHc7AkxxboEs6TG6XUXk2hdhVZYJTC_tlYDD_cuu_mL1B3snOcSVtuQuljbZ4HjaxlbnW30Hol1HWEEIFvnkGUy3oVyo/s320/l_795b1ac2714f62c1a223583621354e0f.jpeg" border="0" /></a><br />SS American Racer<br />SS Green Forest<br />SS Green Port<br />SS Green Wave<br />SS Pioneer Commander<br />SS Pioneer Contender<br />SS Transcolorado<br />USNS Greenville Victory<br />USNS Sgt Andrew Miller<br />USNS Sgt. Truman Kimbro<br /><br />Noncombatants were chosen for the mission because the Paris Agreement prohibited the entry of U.S. Navy or other military forces into the country.<br /><br />With the arrival at Danang of Pioneer Contender on 27 March, the massive U.S. sea evacuation of I and II Corps began. During the next several days four of the five barge-pulling tugs and Sgt. Andrew Miller, Pioneer Commander, and American Challenger put in at the port. The vessels embarked U.S. Consulate, MSC, and other American personnel and thousands of desperate Vietnamese soldiers and civilians. When the larger ships were filled to capacity with 5,000 to 8,000 passengers, they individually sailed for Cam Ranh Bay further down the coast. By 30 March order in the city of Danang and in the harbor had completely broken down. Armed South Vietnamese deserters fired on civilians and each other, the enemy fired on the American vessels and sent sappers ahead to destroy port facilities, and refugees sought to board any boat or craft afloat. The hundreds of vessels traversing the harbor endangered the safety of all. Weighing these factors, the remaining U.S. and Vietnamese Navy ships loaded all the people they could and steamed for the south. MSC ships carried over 30,000 refugees from Danang in the four-day operation. American Challenger stayed offshore to pick up stragglers until day's end on 30 March, when the North Vietnamese overran Danang.<br /><br />In quick succession, the major ports in II Corps fell to the lightly resisted Communist advance. Hampered by South Vietnamese shelling of Qui Nhon, Pioneer Commander, Greenville Victory, Korean-flag LST Boo Heung Pioneer, and three tugs were unable to load evacuees at this city, which fell on 31 March. The speed of the South Vietnamese collapse and the enemy's quick exploitation of it limited the number of refugees rescued from Tuy Hoa and Nha Trang. Before the latter port fell on 2 April, however, Boo Heung Pioneer and Pioneer Commander brought 11,500 passengers on board and put out to sea.<br /><br />Initially, Cam Ranh Bay was chosen as the safe haven for these South Vietnamese troops and civilians transported by MSC. But, even Cam Ranh Bay was soon in peril. Between 1 and 4 April, many of the refugees just landed were reembarked for further passage south and west to Phu Quoc Island in the Gulf of Siam. Greenville Victory, Sgt. Andrew Miller, American Challenger, and Green Port each embarked between 7,000 and 8,000 evacuees for the journey. Pioneer Contender sailed with 16,700 people filling every conceivable space from stem to stern. Crowding and the lack of sufficient food and water among the 8,000 passengers on board Transcolorado led a number of armed Vietnamese marines to demand they be discharged at the closer port of Vung Tau. The ship's master complied to avoid bloodshed, but this crisis highlighted the need for the Navy to provide better security.<br /><br />As the magnitude of the calamity in I and II Corps became apparent, the Seventh Fleet deployed elements of the Amphibious Task Force (Task Force 76) to a position off Nha Trang. Because of the political restrictions on the use of American military forces in South Vietnam and the availability of MSC resources, however, Washington limited the naval contingent, then designated the Refugee Assistance Task Group (Task Group 76.8), to a supporting role. For the most part, this entailed command coordination, surface escort duties, and the dispatch of 50-man Marine security details to the MSC flotilla at sea. By 2 April, the task group--Dubuque, Durham (LKA 114), Frederick (LST 1184), and the Task Force 76 flagship Blue Ridge (LCC 19)--was monitoring operations at Cam Ranh Bay and Phan Rang. That same night the first Marine security force to do so boarded Pioneer Contender. A second contingent was airlifted to Transcolorado on the fourth. Dissatisfied with the condition of reception facilities on Phu Quoc and ill-tempered after the arduous passage south, armed passengers in Greenville Victory forced the master to sail to Vung Tau. Guided missile cruiser Long Beach (CGN 9) and escort Reasoner (DE 1063) intercepted the ship and stood by to aid the crew, but the voyage and debarkation of passengers proceeded uneventfully. In addition, Commander Task Group 76.8 immediately concentrated Dubuque, guided missile destroyer Cochrane (DDG 21), storeship Vega (AF 59), and the three ships of Amphibious Ready Group Alpha at Phu Quoc to position security detachments on each of the MSC vessels and to resupply the refugees with food, water, and medicines. Naval personnel also served as translators to ease the registration process. By 10 April, all ships at Phu Quoc were empty, thus bringing to a close the intracoastal sealift of 130,000 U.S. and South Vietnamese citizens. With stabilization of the fighting front at Xuan Loc east of Saigon and the Communists preparation for the final offensive, the need to evacuate by sea diminished. By the fourteenth all naval vessels had departed the waters off South Vietnam and returned to other duties.<br /><br />Eagle Pull<br /><br />Meanwhile, the Seventh Fleet focused its attention on Cambodia, in imminent danger of falling to the Communist Khmer Rouge guerrillas. Since 1970, the United States had aided the government of President Lon Nol in its struggle with the indigenous enemy and with North Vietnamese forces arrayed along the border with South Vietnam. The American support included a bombing campaign launched from Navy carriers and Air Force bases as far away as Guam and the delivery to Phnom Penh of arms, ammunition, and essential commodities through airlift and Mekong River convoy. Material assistance to the 6,000-man Cambodian Navy included the transfer of coastal patrol craft, PBRs, converted amphibious craft for river patrol and mine warfare, and auxiliary vessels. Despite this aid, by early 1975 the Communists in Cambodia controlled every population center but Phnom Penh, the capital. As the enemy tightened his ring around the city, the resistance of Cambodian government forces began to crumble.<br /><br />Concluding that it was only a matter of time before all was lost in Cambodia, American leaders prepared to evacuate American and allied personnel from Phnom Penh. Fleet commanders revised and updated long-standing plans and alerted their forces for this special mission, designated Operation Eagle Pull. On 3 March 1975, Amphibious Ready Group Alpha (Task Group 76.4), and the 31st Marine Amphibious Unit (Task Group 79.4) embarked and arrived at a designated station off Kompong Som (previously Sihanoukville) in the Gulf of Siam. By 11 April, the force consisted of amphibious ships Okinawa, Vancouver, and Thomaston (LSD 28), escorted by Edson (DD 946), Henry B. Wilson (DDG 7), Knox (DE 1052), and Kirk (DE 1087). In addition, Hancock disembarked her normal complement of fixed-wing aircraft and took on Marine Heavy Lift Helicopter Squadron (HMH) 463 for the operation. Anticipating the need to rescue as many as 800 evacuees, naval leaders decided that they needed all of the squadron's 25 CH-53, CH-46, AH-1J, and UH-1E helicopters and Okinawa's 22 CH-53, AH-1J, and UH-1Es of HMH-462. The amphibious group also carried the 2d Battalion, 4th Marines, which would defend the evacuation landing zone near the U.S. Embassy, and reinforced naval medical-surgical teams to care for any casualties. Land-based U.S. Air Force helicopters and tactical aircraft were also on hand to back up the naval effort. Commander U.S. Support Activities Group/7th Air Force (COMUSSAG) was in overall command of the evacuation operation.<br /><br />On 7 April 1975, the American command put Amphibious Ready Group Alpha on three-hour alert and positioned the force off the Cambodian coast. In the early morning hours of 12 April Washington ordered execution of the daring mission. At 0745 local time, Okinawa began launching helicopters in three waves to carry the 360-man Marine ground security force to the landing zone. One hour later, after traversing 100 miles of hostile territory, the initial wave set down near the embassy and the Marines quickly established a defensive perimeter.<br /><br />Within the next two hours, U.S. officials assembled the evacuees and quickly loaded them on Okinawa and Hancock helicopters. Because many already had left Cambodia by other means prior to the twelfth, the evacuees numbered only 276. The group included U.S. Ambassador John Gunther Dean, other American diplomatic personnel, the acting president of Cambodia, senior Cambodian government leaders and their families, and members of the news media. In all, 82 U.S., 159 Cambodian, and 35 other nationals were rescued.<br /><br />By 1041 all the evacuees had been lifted out, and little more than one-half hour later the ground security force also was airborne and heading out to sea. At 1224 all aircraft and personnel were safely on board Amphibious Ready Group Alpha ships. Although one Khmer Rouge 75-millimeter shell landed near the embassy landing zone, no casualties were suffered during the entire operation. The following day, task group helicopters flew the evacuated personnel to Thailand and the naval force set sail for Subic Bay. Thus through detailed planning, preparation, and precise execution, the joint evacuation force successfully accomplished the military mission in Cambodia.<br /><br />The Fall of South Vietnam<br /><br />The experience gained in Operation Eagle Pull and in the refugee evacuations from South Vietnam's I and II Corps served the fleet well when the Republic of Vietnam, after 20 years of struggle, collapsed under the Communist onslaught. During the latter half of April, U.S. naval leaders prepared ships and men for the final evacuation of American and allied personnel from South Vietnam. The ships of the MSC flotilla were cleaned, restocked with food, water, and medicine; and deployed off Vung Tau in readiness. In addition, Marine security detachments embarked in each of the vessels and prepared to disarm boarding refugees and ensure order. Rincon (T-AOG-77) stood by to provide fuel to Vietnamese and American ships making the exodus from South Vietnam's waters.<br /><br />The Seventh Fleet also marshalled its forces in the Western Pacific. Between 18 and 24 April 1975, with the loss of Saigon imminent, the Navy concentrated off Vung Tau a vast assemblage of ships under Commander Task Force 76.<br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXrGpwuyFIfDzFBsOWU8_SplZPPxXrJzNC-vf5WtExBx6g19-8QC1Cq5TpjNLP5FOt2gqWZDMTXbFEAoX1FTKKynCEk_n1Vmbl2fVwNEQOG6EXjT3qGxjZKPpQFmn-dRm2uRNV5Tk1gQs/s1600-h/300px-PioC.jpeg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301262973210477538" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 300px; height: 279px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXrGpwuyFIfDzFBsOWU8_SplZPPxXrJzNC-vf5WtExBx6g19-8QC1Cq5TpjNLP5FOt2gqWZDMTXbFEAoX1FTKKynCEk_n1Vmbl2fVwNEQOG6EXjT3qGxjZKPpQFmn-dRm2uRNV5Tk1gQs/s320/300px-PioC.jpeg" border="0" /></a><br />Task Force 76<br />Blue Ridge (command ship)<br />Task Group 76.4 (Movement Transport Group Alpha)<br />Okinawa<br />Vancouver<br />Thomaston<br />Peoria (LST 1183)<br />Task Group 76.5 (Movement Transport Group Bravo)<br />Dubuque<br />Durham<br />Frederick<br />Task Group 76.9 (Movement Transport Group Charlie)<br />Anchorage (LSD 36)<br />Denver (LPD 9)<br />Duluth (LPD 6)<br />Mobile (LKA 115)<br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJJZbcfuYfb3k8Pc-kPgrgxAqd0hlXEH64jF1rSjh4vMBIH2BI-Q1bT7EKCdJftIbwAqe6zmJlCMrvkEP5pMQcNPZQ8xEenxUwYaPrm86UGzAHDJxt_GRVSLKJMRFBGYEQFYPJD0Tezsg/s1600-h/August_08_004.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301265616859416514" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 202px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhJJZbcfuYfb3k8Pc-kPgrgxAqd0hlXEH64jF1rSjh4vMBIH2BI-Q1bT7EKCdJftIbwAqe6zmJlCMrvkEP5pMQcNPZQ8xEenxUwYaPrm86UGzAHDJxt_GRVSLKJMRFBGYEQFYPJD0Tezsg/s320/August_08_004.jpg" border="0" /></a><br />The task force was joined by Hancock and Midway, carrying Navy, Marine, and Air Force helicopters; Seventh Fleet flagship Oklahoma City; amphibious ships Mount Vernon (LSD 39), Barbour County (LST 1195), and Tuscaloosa (LST 1187); and eight destroyer types for naval gunfire, escort, and area defense. The Enterprise and Coral Sea carrier attack groups of Task Force 77 in the South China Sea provided air cover while Task Force 73 ensured logistic support. The Marine evacuation contingent, the 9th Marine Amphibious Brigade (Task Group 79.1), consisted of three battalion landing teams, four helicopter squadrons, support units, and the deployed security detachments.<br /><br />After a dogged defense at Xuan Loc, the South Vietnamese forces defending the approaches to Saigon finally gave way on 21 April. With the outcome of the conflict clear, President Thieu resigned the same day. On the 29th, North Vietnamese and Viet Cong forces closed on the capital, easily pushing through the disintegrating Republic of Vietnam Armed Forces. Although U.S. and South Vietnamese leaders had delayed ordering an evacuation, for fear of sparking a premature collapse, the time for decision was now at hand.<br /><br />At 1108 local time on 29 April 1975, Commander Task Force 76 received the order to execute Operation Frequent Wind (initially Talon Vise), the evacuation of U.S. personnel and Vietnamese who might suffer as a result of their past service to the allied effort. At 1244, from a position 17 nautical miles from the Vung Tau Peninsula, Hancock launched the first helicopter wave. Over two hours later, these aircraft landed at the primary landing zone in the U.S. Defense Attache Office compound in Saigon. Once the ground security force (2d Battalion, 4th Marines) established a defensive cordon, Task Force 76 helicopters began lifting out the thousands of American, Vietnamese, and third-country nationals. The process was fairly orderly. By 2100 that night, the entire group of 5,000 evacuees had been cleared from the site. The Marines holding the perimeter soon followed.<br /><br />The situation was much less stable at the U.S. Embassy. There, several hundred prospective evacuees were joined by thousands more who climbed fences and pressed the Marine guard in their desperate attempt to flee the city. Marine and Air Force helicopters, flying at night through ground fire over Saigon and the surrounding area, had to pick up evacuees from dangerously constricted landing zones at the embassy, one atop the building itself. Despite the problems, by 0500 on the morning of 30 April, U.S. Ambassador Graham Martin and 2,100 evacuees had been rescued from the Communist forces closing in. Only two hours after the last Marine security force element was extracted from the embassy, Communist tanks crashed through the gates of the nearby Presidential Palace. At the cost of two Marines killed in an earlier shelling of the Defense Attaché Office compound and two helicopter crews lost at sea, Task Force 76 rescued over 7,000 Americans and Vietnamese.<br /><br />Meanwhile, out at sea, the initial trickle of refugees from Saigon had become a torrent. Vietnamese Air Force aircraft loaded with air crews and their families made for the naval task force. These incoming helicopters (most fuel-starved) and one T-41 trainer complicated the landing and takeoff of the Marine and Air Force helicopters shuttling evacuees. Ships of the task force recovered 41 Vietnamese aircraft, but another 54 were pushed over the side to make room on deck or ditched alongside by their frantic crews. Naval small craft rescued many Vietnamese from sinking helicopters, but some did not survive the ordeal.<br /><br />This aerial exodus was paralleled by an outgoing tide of junks, sampans, and small craft of all types bearing a large number of the fleeing population. MSC tugs Harumi, Chitose Maru, Osceola, Shibaura Maru, and Asiatic Stamina pulled barges filled with people from Saigon port out to the MSC flotilla. There, the refugees were embarked, registered, inspected for weapons, and given a medical exam. Having learned well from the earlier operations, the MSC crews and Marine security personnel processed the new arrivals with relative efficiency. The Navy eventually transferred all Vietnamese refugees taken on board naval vessels to the MSC ships.<br /><br />Another large contingent of Vietnamese was carried to safety by a flotilla of 26 Vietnamese Navy and other vessels. These ships concentrated off Son Island southwest of Vung Tau with 30,000 sailors, their families, and other civilians on board.<br /><br />On the afternoon of 30 April, Task Force 76 and the MSC group moved away from the coast, all the while picking up more seaborne refugees. This effort continued the following day. Finally, when this human tide ceased on the evening of 2 May, Task Force 76, carrying 6,000 passengers; the MSC flotilla of Sgt Truman Kimbro, Sgt Andrew Miller, Greenville Victory, Pioneer Contender, Pioneer Commander, Green Forest, Green Port, American Challenger, and Boo Heung Pioneer, with 44,000 refugees; and the Vietnamese Navy group set sail for reception centers in the Philippines and Guam. Thus ended the U.S. Navy's role in the 25-year American effort to aid the Republic of Vietnam in its desperate fight for survival.</strong><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrVFvoTVjg13jRVCkP_pTs7_9AjZrJqAnMvy263UD7fzA5Jd-rJQHE8ql7TTwMLh6f-NuT0ce1Y9NU9Rv52YlXLoEuA4j5eBWd7XeWEf_YU9GgdeASPrGF0WWBqdguIybhZptMWxfXLCA/s1600-h/SS%2520American%2520Racer%2520&%2520Queen%2520Port.jpeg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301263204222221186" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 202px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhrVFvoTVjg13jRVCkP_pTs7_9AjZrJqAnMvy263UD7fzA5Jd-rJQHE8ql7TTwMLh6f-NuT0ce1Y9NU9Rv52YlXLoEuA4j5eBWd7XeWEf_YU9GgdeASPrGF0WWBqdguIybhZptMWxfXLCA/s320/SS%2520American%2520Racer%2520&%2520Queen%2520Port.jpeg" border="0" /></a><br /><br /><strong>The final test of strength between the Republic of Vietnam and its Communist antagonists that many observers had long predicted occurred in the early months of 1975. Demoralized South Vietnamese troops abandoned port after port along the South Vietnamese coast to swiftly advancing North Vietnamese forces. With five North Vietnamese divisions pressing the remnants of the South Vietnamese armed forces and hundreds of thousands of refugees into Danang, order in the city disintegrated. During this period of growing chaos in South Vietnam, the U.S. Navy readied for evacuation operations. On 25 March 1975, a number of ships were alerted for imminent evacuation operations in South Vietnam. Noncombatants were chosen for the mission because the Paris Agreement prohibited the entry of US Navy or other military forces into the country.<br /><br />With the arrival at Danang of Pioneer Contender on 27 March 1975, the massive U.S. sea evacuation of I and II Corps began. During the next several days four of the five barge-pulling tugs and Sgt. Andrew Miller, Pioneer Commander, and American Challenger put in at the port. The vessels embarked U.S. Consulate, MSC, and other American personnel and thousands of desperate Vietnamese soldiers and civilians. When the larger ships were filled to capacity with 5,000 to 8,000 passengers, they individually sailed for Cam Ranh Bay further down the coast. Hampered by South Vietnamese shelling of Qui Nhon, Pioneer Commander, Greenville Victory, Korean-flag LST Boo Heung Pioneer, and three tugs were unable to load evacuees at this city, which fell on 31 March. The speed of the South Vietnamese collapse and the enemy's quick exploitation of it limited the number of refugees rescued from Tuy Hoa and Nha Trang. Before the latter port fell on 2 April, however, Boo Heung Pioneer and Pioneer Commander brought 11,500 passengers on board and put out to sea.<br /><br />On the evening of 2 May 1975 the MSC flotilla of Sgt Truman Kimbro, Sgt Andrew Miller, Greenville Victory, Pioneer Contender, Pioneer Commander, Green Forest, Green Port, American Challenger, and Boo Heung Pioneer, with 44,000 refugees, set sail for reception centers in the Philippines and Guam. Thus ended the 25-year American effort to aid the Republic of Vietnam in its fight for survival. </strong><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhc0IXPktrUURLJ-MR-PoS28zM8cAwhg60JiygbSXTNnmgV_v_jnfWTi4sJH4kRWaG7Qfqv4U0BEG-1xTOKuL54ZYLr-hKCEL5xYqJR0xOTn4izfxDIsuegMTsz7CKjubyJ7bTYi_LjwlI/s1600-h/August_08_003.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301265685317056194" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 216px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhc0IXPktrUURLJ-MR-PoS28zM8cAwhg60JiygbSXTNnmgV_v_jnfWTi4sJH4kRWaG7Qfqv4U0BEG-1xTOKuL54ZYLr-hKCEL5xYqJR0xOTn4izfxDIsuegMTsz7CKjubyJ7bTYi_LjwlI/s320/August_08_003.jpg" border="0" /></a><br /><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301274384843380546" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 258px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5UcMpVU6BBx03X3sgn5pVYFuXds8KBXR63tvO2VHA3p8Y5Q1v_DOIqeuNcacJulGOSERBFyIPxbBpmvGOuaqaAxhTJIQPdBgGjz7WJvuHnqZICacAEEN7kkXbBh0uddoUAS-g_UOjsWg/s320/USSMobile.jpg" border="0" /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnreU02J4YiybzGEv-8Z8oDaxcbyveZPifhpjV6dGqzMeWwwQijSkslRmC1OueHfzuQR5uyC5ixfzw71ytYaAAaXG8c4fSSrottMqCxhyphenhyphenoMb45vqxrmDNWwVWZgoYGJ_cyARMsx0Wlor0/s1600-h/USS_Anchorage%253B10123604.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301274324029316914" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 229px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgnreU02J4YiybzGEv-8Z8oDaxcbyveZPifhpjV6dGqzMeWwwQijSkslRmC1OueHfzuQR5uyC5ixfzw71ytYaAAaXG8c4fSSrottMqCxhyphenhyphenoMb45vqxrmDNWwVWZgoYGJ_cyARMsx0Wlor0/s320/USS_Anchorage%253B10123604.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhGpCkBigev6DaXKwP-iA_nP7lUKfACax292eOGYMVvQWRFOOcJgOa5_UnRPZz6XMPh4e4ldm0CAeC1z8LtR0jWtsEkhyphenhyphenXSJ7Z-tA5OFsz5lxtqMJL06q909XS98byucmxb3fNfR2RqSB8/s1600-h/overseasrose.gif"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301274253123150706" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 180px; height: 182px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhGpCkBigev6DaXKwP-iA_nP7lUKfACax292eOGYMVvQWRFOOcJgOa5_UnRPZz6XMPh4e4ldm0CAeC1z8LtR0jWtsEkhyphenhyphenXSJ7Z-tA5OFsz5lxtqMJL06q909XS98byucmxb3fNfR2RqSB8/s320/overseasrose.gif" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfwhdTTsZK-K7yYs0s2kJsuAkK4AM_TxxrRuEsiOMow48zOAbPu7DMMGenhAkcGbk8WZ7zTkc7hyphenhyphenMcEl_rsKCrHnvez0McHMRgZssiP1vnggIokHZ_9KbiD9fS0gXf9wd2_LjdunsdU8s/s1600-h/lst1187_2.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301274173645743138" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 158px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjfwhdTTsZK-K7yYs0s2kJsuAkK4AM_TxxrRuEsiOMow48zOAbPu7DMMGenhAkcGbk8WZ7zTkc7hyphenhyphenMcEl_rsKCrHnvez0McHMRgZssiP1vnggIokHZ_9KbiD9fS0gXf9wd2_LjdunsdU8s/s320/lst1187_2.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEguXlTsTJFAXrXd0WBeg2LwuTUzrU-V7okfYp3tHw_TnVvxxu86Pn0JZOlP9rd-R9oNs7kuzRcKWkQa7HB4OsYtzPCrRJjgFonsmW4E2chOAKgx2wbUrsSvmUo5UydY4JHvCmblfXsxsJw/s1600-h/lst1185_2.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301274090428998178" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 174px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEguXlTsTJFAXrXd0WBeg2LwuTUzrU-V7okfYp3tHw_TnVvxxu86Pn0JZOlP9rd-R9oNs7kuzRcKWkQa7HB4OsYtzPCrRJjgFonsmW4E2chOAKgx2wbUrsSvmUo5UydY4JHvCmblfXsxsJw/s320/lst1185_2.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8JkTkKb1zl5gQpkpx5_Q_QmOdSnETL50CC4o3o3Xr4N5nRXJKrjHpNUab9AFzckAnSI0kDbb8vVObXoSuXWDz9CIeKkWgW1L1-GYlfKkttn62mlry8aIxS35faJ_KiPKb19ioqd-AQ6A/s1600-h/lsd39_2.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273997191268882" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 162px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8JkTkKb1zl5gQpkpx5_Q_QmOdSnETL50CC4o3o3Xr4N5nRXJKrjHpNUab9AFzckAnSI0kDbb8vVObXoSuXWDz9CIeKkWgW1L1-GYlfKkttn62mlry8aIxS35faJ_KiPKb19ioqd-AQ6A/s320/lsd39_2.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOdM6_Jb8XWq_t42LLM-n5bAVqFGw7nkZ7kHT4fsawPKTr2mbqfHhuVR_nffN1nwG1PSJaZUgRNsAG6xk6o5LtRHWibLE0lZ9EtdV-SA1UhlVoRM_WyxTwfZrKoB554hpm4w2ABxNrtTA/s1600-h/danang_3.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273912867492498" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 200px; height: 250px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOdM6_Jb8XWq_t42LLM-n5bAVqFGw7nkZ7kHT4fsawPKTr2mbqfHhuVR_nffN1nwG1PSJaZUgRNsAG6xk6o5LtRHWibLE0lZ9EtdV-SA1UhlVoRM_WyxTwfZrKoB554hpm4w2ABxNrtTA/s320/danang_3.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihx3j-kpCsjp2n9MPg3uoBffgGdkkyMKyknIljGA0fEzL7AKH0Abk2TPOEPkQJiIVDw29yS3oEqYYWG-dOGdXXwFSIBgnJCLKsUpYBfsMdRcLnZwHhAI8Z0RhBuSqJ4ut6aLZVQytV1K8/s1600-h/0913023704.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273823764535522" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 258px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEihx3j-kpCsjp2n9MPg3uoBffgGdkkyMKyknIljGA0fEzL7AKH0Abk2TPOEPkQJiIVDw29yS3oEqYYWG-dOGdXXwFSIBgnJCLKsUpYBfsMdRcLnZwHhAI8Z0RhBuSqJ4ut6aLZVQytV1K8/s320/0913023704.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOaiJbo87cJSKfRGttNgvU0fjE6JRmD-x4-K0klxMOpHKm7eOWrUwsFxMHACpf2UctHGCMem3tAFdGxj1q1uEGbE93TVV0G59rUqSbZOO3AfVqzSw4AVkb4uik7rStltNqm0niCnp3Txg/s1600-h/0913023702.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273746211437362" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 240px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOaiJbo87cJSKfRGttNgvU0fjE6JRmD-x4-K0klxMOpHKm7eOWrUwsFxMHACpf2UctHGCMem3tAFdGxj1q1uEGbE93TVV0G59rUqSbZOO3AfVqzSw4AVkb4uik7rStltNqm0niCnp3Txg/s320/0913023702.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoff5srLZVH2QIIkoG52IYbo-MPKqcjr3JK6rfn1glhCEEygRuDy4_npwd0-NJkvucIPPgEpzavG8e_il24a9CMHTtzlmZoDOLDUu0GMLOQwabSeIIdoeLdrcrNq_ZZVweTwZc8QJB_i8/s1600-h/10011928.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273515885222834" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 258px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgoff5srLZVH2QIIkoG52IYbo-MPKqcjr3JK6rfn1glhCEEygRuDy4_npwd0-NJkvucIPPgEpzavG8e_il24a9CMHTtzlmZoDOLDUu0GMLOQwabSeIIdoeLdrcrNq_ZZVweTwZc8QJB_i8/s320/10011928.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjDuDx6-5jzxAAGx5gxB8aQCIJ-Wko4LMfQ_hjX3VXoqg4oVj2tQBl7W1ZMRxRZrjoVs6OpZtvipb18mUzRqfovo-GMXh0H61VoctdMZuYBnMaYu3yJTdtoAmrernAWBMGCxxFgOwkZdIo/s1600-h/10011927.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273449475608882" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 249px; height: 320px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjDuDx6-5jzxAAGx5gxB8aQCIJ-Wko4LMfQ_hjX3VXoqg4oVj2tQBl7W1ZMRxRZrjoVs6OpZtvipb18mUzRqfovo-GMXh0H61VoctdMZuYBnMaYu3yJTdtoAmrernAWBMGCxxFgOwkZdIo/s320/10011927.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiaaOP9AWIJ8Wf6l2UNrUPbV2RmHhyphenhyphenlsqRhsD6tlW_slAiRuH5P5_kPNFPKcocb08yHqpmvzpsRclFEOPj81A1dFPTKn6_bjBuJWmWAzRi7cuiXxeQmLeoAJEWn_WBXMBaIaNN-1zYJJ48/s1600-h/10011925.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273370253608322" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 187px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiaaOP9AWIJ8Wf6l2UNrUPbV2RmHhyphenhyphenlsqRhsD6tlW_slAiRuH5P5_kPNFPKcocb08yHqpmvzpsRclFEOPj81A1dFPTKn6_bjBuJWmWAzRi7cuiXxeQmLeoAJEWn_WBXMBaIaNN-1zYJJ48/s320/10011925.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjaoSvSJCW8Yq_Winwia0-trXKrQvoByJRDWZCE8def_Sp4XmEEUeUWvh62unGw18uQITtIx3qiyFyqdo4lEQdI0S1n8JJw2ejip3c9leOqTAr7TkfN4dV_iEVR-aphFO2VzRtBF2xrYU/s1600-h/800px-USS_Duluth_%2528LPD_6%2529.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273293409280146" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 229px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjaoSvSJCW8Yq_Winwia0-trXKrQvoByJRDWZCE8def_Sp4XmEEUeUWvh62unGw18uQITtIx3qiyFyqdo4lEQdI0S1n8JJw2ejip3c9leOqTAr7TkfN4dV_iEVR-aphFO2VzRtBF2xrYU/s320/800px-USS_Duluth_%2528LPD_6%2529.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcRmxaoNJ6SizsoNrzd9o-7AqDadtiBLz0PUCFxgI7uldYTPeUALuVoDl712INmiXTRU-cwg8KYCWIBUGCqBDv030pWof1EIKcnY3IEaxCJmZjz8MZvz1KSwiw4VVkdowggQ5235QX0c8/s1600-h/750px-USS_Denver_LPD-9.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273217930820786" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 256px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgcRmxaoNJ6SizsoNrzd9o-7AqDadtiBLz0PUCFxgI7uldYTPeUALuVoDl712INmiXTRU-cwg8KYCWIBUGCqBDv030pWof1EIKcnY3IEaxCJmZjz8MZvz1KSwiw4VVkdowggQ5235QX0c8/s320/750px-USS_Denver_LPD-9.jpg" border="0" /></a><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiigKl7RQrmStcIDODsjfTgdWbq48obbE9UFj-4JaU9grd2O9LfAdcmfq3AFeCnoAa6uZ2nr5YU4Z2ZMEQgjAQEECKCdQNZclplY3QdwDm-rH3oZ3Tms5m6_xZ-TSgZ_m_kggCdkXX1oPk/s1600-h/724px-USS_Peoria_%2528LST-1183%2529_aerial_stbd_bow_view.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5301273140446863730" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 320px; height: 265px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiigKl7RQrmStcIDODsjfTgdWbq48obbE9UFj-4JaU9grd2O9LfAdcmfq3AFeCnoAa6uZ2nr5YU4Z2ZMEQgjAQEECKCdQNZclplY3QdwDm-rH3oZ3Tms5m6_xZ-TSgZ_m_kggCdkXX1oPk/s320/724px-USS_Peoria_%2528LST-1183%2529_aerial_stbd_bow_view.jpg" border="0" /></a><table border="0" cellpadding="2" cellspacing="0" width="100%"><tbody><tr style="font-weight: bold;"><td width="100%"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:130%;" >USS Midway mở khu triển lãm vĩnh viễn về cuộc di tản năm 1975</span><br /><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:78%;" > Wednesday, February 24, 2010 </span> <!-- AddThis Button BEGIN --> <a class="addthis_button" href="http://www.addthis.com/bookmark.php?v=250&pub=quangp"><img src="http://s7.addthis.com/static/btn/v2/lg-share-en.gif" alt="Bookmark and Share" style="border: 0pt none;" align="right" width="125" height="16" /></a><script type="text/javascript" src="http://s7.addthis.com/js/250/addthis_widget.js?pub=quangp"></script> <!-- AddThis Button END --> </td> </tr> <tr style="font-weight: bold;"> <td> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="2" width="" height="4"><tbody><tr><td align="left" valign="top"><br /></td></tr></tbody></table> </td> </tr> <tr style="font-weight: bold;"> <td bgcolor="#aaaaaa" width="100%" height="2"><br /></td> </tr> <tr style="font-weight: bold;"> <td> <table border="0" cellpadding="0" cellspacing="2" width="" height="4"><tbody><tr><td align="left" valign="top"><br /></td></tr></tbody></table> </td> </tr> <tr style="font-weight: bold;" align="left" valign="top"> <td width="800"> <table align="left" border="0" cellpadding="2" cellspacing="0" width="20%"> <tbody><tr> <td class="images"><span style="color: rgb(102, 102, 102);font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><a href="javascript:openppl('viewpict.asp?hl=&fn=http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/108873-big_Midway_Press_Conf.jpg',0,0,460,480)"><img src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/108873-medium_Midway_Press_Conf.jpg" alt="medium_Midway_Press_Conf.jpg" border="1" /></a><br /><br /></span></td> </tr> <tr> <td class="images"><br /></td> </tr> </tbody></table> <span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" > </span><p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><i style=""><span style="font-family:Tahoma;"></span></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><i style=""><span style="font-family:Tahoma;"><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Hình bên: Chiếc máy chữ Olivetti được trao tặng cho Bảo Tàng Viện USS Midway, trong buổi họp báo của ông Scott McGaugh đại diện Bảo Tàng Viện USS Midway. Ký giả Nguyễn Tú A, bên phải, đã mang theo chiếc máy chữ xách tay kiểu rất quen thuộc này tại Việt Nam gần nửa thế kỷ trước, khi lên trực thăng từ Sài Gòn tới chiến hạm Midway ngày 30 tháng 4, năm 1975. (Hình: Hồng Châu/Người Việt)<o:p></o:p></span></span></span></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span times="" new="" roman="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"> </p><p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span times="" new="" roman="" style="font-family:Tahoma;"><o:p></o:p></span></p><span times="" new="" roman="" style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">LITTLE SAIGON (NV) - Ngày 30 tháng 4, năm 2010 sắp tới, Viện Bảo Tàng Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway tại hải cảng San Diego sẽ chính thức khánh thành khu triển lãm “Operation Frequent Wind” để vinh danh các thủy thủ và hàng ngàn người Việt Nam đã được tầu này di tản 35 năm trước khi thành phố Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản.<o:p></o:p></span></span></span></span><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" > </span> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Ông Scott McGaugh, giám đốc quảng bá của bảo tàng viện, sáng Thứ Tư, 24 tháng 2, đã tổ chức một cuộc họp báo tại Little Saigon để giới thiệu chương trình lễ kỷ niệm 35 năm di tản và khai trương khu triển lãm. Buổi lễ đặc biệt, mang tên “Celebrating Freedom in <st1:country-region st="on">America</st1:country-region>,” sẽ được tổ chức ngay trên phi đạo của hàng không mẫu hạm USS Midway, hiện đang đậu tại hải cảng ngay trung tâm thành phố <st1:city st="on"><st1:place st="on">San Diego</st1:place></st1:city>.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Phần nghi thức bao gồm lễ thượng kỳ, quốc ca Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, lễ mặc niệm. Ðây là lần đầu tiên cờ Việt Nam Cộng Hòa được kéo lên trên một chiến hạm Hoa Kỳ. Trong phần khai mạc khu triển lãm vĩnh viễn có lời phát biểu của các ông Larry Chambers, hạm trưởng USS Midway thời gian 1975, và Vern Jumper chỉ huy trưởng không lực trên mẫu hạm. Một số trong những người tị nạn năm xưa sẽ có mặt và kể lại câu chuyện họ được tàu USS Midway cứu vớt như thế nào. Tiếp sau nghi lễ là một chương trình văn nghệ đặc biệt với các nghệ sĩ Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Hiện vật đáng chú ý nhất trong khu triển lãm là một chiếc máy bay quan sát O-1 Bird Dog, cùng loại chiếc máy bay mà Thiếu Tá Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Lý Bửng, chở vợ và 5 con, đáp xuống USS Midway hồi năm 1975. Ðây là lần đầu tiên một máy bay không trang bị phương tiện đáp trên mẫu hạm, không có móc ở đuôi để mắc vào dây cáp giữ lại, và do một phi công chưa từng được huấn luyện về kỹ thuật đáp trên tàu, đã thành công trong việc khó khăn này với một máy bay chở quá tải.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Trong buổi họp báo, đứng bên hai tấm hình chụp những người di tản đến tàu Midway, ông McGaugh cho biết bảo tàng viện rất cần có thêm những hình ảnh chụp vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những ngày sau đó của người tị nạn Việt Nam đến định cư ở Hoa Kỳ. Trong dịp này ký giả Nguyễn Tú A đem tới tặng một chiếc máy chữ xách tay hiệu Olivetti mà 35 năm trước ông đã mang theo khi di tản bằng trực thăng đến mẫu hạm Midway. Ông Nguyễn Tú A cũng tự nguyện tham gia vào việc thu thập hình ảnh, tài liệu cho bào tàng viện bằng cách kêu gọi những ai có thể đóng góp, nếu cần biết hỏi thêm chi tiết gì hãy liên lạc với ông qua điện thoại: 714-822-6069 hoặc e-mail: nguyentua@gmail.com.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Các ký giả, phóng viên truyền thông hiện diện trong buổi họp báo đều tán thành việc làm ý nghĩa của Bảo Tàng Viện USS Midway. Ông McGaugh đề nghị phổ biến tin tức cho cộng đồng Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> và đồng thời bày tỏ sự mong muốn những người đã từng di tản qua mẫu hạm Midway đến tham dự buổi lễ sắp tới. Theo lời ông, giá vé vào cửa bảo tàng viện là $20.00 một người; từ vùng Little Saigon đến San Diego bằng xe riêng chỉ mất hơn 1 giờ và bình thường có đủ chỗ đậu tại parking. Tuy nhiên có thể đi xe lửa Amtrak, từ ga San Diego đến nơi tàu USS Midway neo thường trực tại cảng chỉ đi bộ mất ít phút. Ông hy vọng nhiều người có thể đi xe bus hay tổ chức đi chung.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Hàng không mẫu hạm USS Midway (CV-41) được Hải Quân Hoa Kỳ đưa vào sử dụng năm 1945 sau Thế Chiến II, tới 1992 giải ngũ và từ năm 2004 về neo tại cảng San Diego trở hành một bảo tàng viện nổi. Chỉ trong năm đầu tiên, Bảo Tàng Viện USS Midway đã có gần 900,000 khách lên thăm.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin: 0in 0in 6pt;"><span style="font-family:Tahoma;"><span style=";font-family:Verdana,Arial,Helvetica,sans-serif;font-size:85%;" ><span style="font-family:Verdana;"><span style="font-size:85%;">Trong chiến tranh Việt Nam, USS Midway có mặt trong những giai đoạn then chốt, lần thứ nhất, năm 1965, khi Hoa Kỳ bắt đầu trực tiếp tham chiến và oanh tạc Bắc Việt, tới Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, các máy bay của Midway góp phần vào việc thả mìn phong tỏa bờ biển Bắc Việt, năm 1975 trở lại trong “Operation Frequent Wind” và là chiến hạm chính trong Hải đội 76 thi hành cuộc di tản bằng trực thăng từ Sài Gòn. (HC)</span></span></span></span></p></td></tr></tbody></table>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-58362540481773649252010-02-19T15:14:00.001-08:002010-02-20T18:02:46.024-08:00Tháng ba bẩy lăm<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjIaaH_SLqRsGTqEO1ydxirzQrL3YoYL6_vGHrFBf0iHMkRABxjOzIIBy-iX0SLjTVuwoojbnzu-ufpSqx3IxGN7tNKSDtGLX_ovkjrTTqvNGcv4LIAU0a_A5beEwHiIMkSasXcMLgy1-E/s1600-h/DOG_TAG.jpg"><img style="margin: 0px auto 10px; display: block; text-align: center; cursor: pointer; width: 400px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjIaaH_SLqRsGTqEO1ydxirzQrL3YoYL6_vGHrFBf0iHMkRABxjOzIIBy-iX0SLjTVuwoojbnzu-ufpSqx3IxGN7tNKSDtGLX_ovkjrTTqvNGcv4LIAU0a_A5beEwHiIMkSasXcMLgy1-E/s400/DOG_TAG.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5440511330455397634" border="0" /></a><br /><br /><div align="center"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjSamzRQS5KzeBZb40UcTa2Siuco4OVZ75_6YF0bkznmTlC9Hh1lpiklAd2n4fRygtLnZGZj-ZS3qk2txvpj22H0JU257_8ZJyK7AM1a4GHLNaT5BG0CqnqXSKe0ss4PctAJqWROsJtQSI/s1600-h/3308849196_25299e8892.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5440097021979540162" style="margin: 0px auto 10px; display: block; width: 400px; height: 266px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjSamzRQS5KzeBZb40UcTa2Siuco4OVZ75_6YF0bkznmTlC9Hh1lpiklAd2n4fRygtLnZGZj-ZS3qk2txvpj22H0JU257_8ZJyK7AM1a4GHLNaT5BG0CqnqXSKe0ss4PctAJqWROsJtQSI/s400/3308849196_25299e8892.jpg" border="0" /></a><br /><br /><strong>Ba mươi lăm năm ngày ấy ta chia tay,<br />Cung kiếm bên mình ta bỏ dở.<br />Tàn cuộc chiến về ôm mối hận,<br />Mộng chinh nhân dang dở cả cuộc đời,<br />Còn chi nữa lý tưởng cả đời trai,<br /><br />Ba mươi lăm năm ngày ấy ta xa nhau,<br />Bốn phương là nhà ta tung cánh,<br />Cho tròn thỏa sức chí làm trai,<br />Anh biên giới, tôi vùng sông nước,<br />Anh cao nguyên, tôi băng rừng lội suối,<br />Cả cuộc đời nguyện hiến tặng non sông.<br /><br />Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,<br />Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,<br />Bạc con tim, bạc cả mái đầu,<br />Cười trong nước mắt nuốt thương đau,<br />Mang kỷ niệm lý tưởng cả đời trai,<br />Men rượu đắng nuốt cả hận đời,<br />Tình chiến hữu say tình huynh đệ.<br /><br />Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,<br />Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,<br />Huynh đệ chi binh vui mừng lắm,<br />Nâng chén cạn ôm cả vòng tay,<br />Kỷ vật đó đời trai nhớ quá,<br />Bạn bè dăm đứa chỉ còn đây,<br />Uống cạn ly này nữa anh bạn,<br />Ấm lòng chiến sỹ nay đầu bạc,<br />Buồn nhớ sưởi ấm thêm tình chiến hữu,<br /><br />Ba mươi lăm năm ấy ta lại gặp,<br />Đừng quên nhé, ta lại gặp,<br />Đủ bạn bè thương nhớ lại đầy vơi…<br /><br /><br />Alfa Hoàng cúc<br /><br /><br /><br /></strong></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-75240253322888071192010-01-26T23:02:00.000-08:002010-01-26T23:05:39.936-08:00NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG<object width="425" height="344"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/x_eEqEm9C-M&hl=en_US&fs=1&"><param name="allowFullScreen" value="true"><param name="allowscriptaccess" value="always"><embed src="http://www.youtube.com/v/x_eEqEm9C-M&hl=en_US&fs=1&" type="application/x-shockwave-flash" allowscriptaccess="always" allowfullscreen="true" width="425" height="344"></embed></object>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-30939004178539592802009-08-29T10:39:00.000-07:002009-08-29T10:45:56.826-07:00Tấm Thẻ Bài<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZbGWltzIqiQO7rK8OmsLJBhjHDsEAO3gVZb5vhHm7BbxyQWJ5kcZbgQygnagzJJThQWzhyphenhyphendDs7CS7RD6z49QMwkSjhYyEFqyyCKsnpdwG65nmwsxmAGFa-T_h4K0TKm-T3pGgKq6DwRY/s1600-h/3711779371_046bd91089.jpg"><img style="margin: 0px auto 10px; display: block; text-align: center; cursor: pointer; width: 274px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZbGWltzIqiQO7rK8OmsLJBhjHDsEAO3gVZb5vhHm7BbxyQWJ5kcZbgQygnagzJJThQWzhyphenhyphendDs7CS7RD6z49QMwkSjhYyEFqyyCKsnpdwG65nmwsxmAGFa-T_h4K0TKm-T3pGgKq6DwRY/s400/3711779371_046bd91089.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5375442464962478034" border="0" /></a><br /> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">Mười hai năm rồi em không gặp anh và sẽ không bao giờ gặp được anh nữa vì anh đã bỏ mình trong trại cải tạo đã sáu năm qua.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Sáng nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong nhiệm vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh đã sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.</span><br /><br /> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">Anh ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mổi người tù chết đi chỉ được vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ thấp. Đau đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã mục của anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa, chiếc mền dù bao phủ thân anh vẩn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có mang thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý do bị quản thúc là "phản quốc"!</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man hơn chế độ Việt Nam ngày nay ?</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Vậy mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương,Tổ Quốc của mình.<br /><br />Thật ra thì Quê hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẩn sống trong tim cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ máu, người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè nặng tâm hồn.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Hôm nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn đường đã qua của mình, sao lòng em thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân đến chậm vì mùa Đông không muốn đi, đã tháng ba tháng tư mà khí hậu vẩn còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời có thấm chi với cái lạnh, cái buồn của người Việt ly hương, mổi năm khi tháng tư về ?</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Sáng nay em nhớ anh,em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ tháng tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng "Phản Quốc" như muôn ngàn lưởi dao đâm vào tim em.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> <br /><br />Em nhớ ngày nào, mổi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng rỡ. Mổi lần được huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương, cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các huy chương đó ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> <br /><br />Tháng tư là mùa Xuân phải không anh ? Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có thêm cây anh đào đang rực đỏ với nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá, nhưng sao lòng em vẩn thấy mất mát ngậm ngùi.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Em đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục nhã đau thương đã ôm ấp thân xác anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt lạnh, và em đang thả hồn về ngày hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo rắt ma quái, quyến rủ dị thường của người nhạc sĩ vô danh trong "Ru khúc mộng thường" đưa em về lại những ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa trăng xưa.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Ở đây không có tiếng sáo diều lơ lững trên không, cũng không có những nữ sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng tiếng đàn của người nghệ sĩ tài hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có trăng sáng, có trời xanh, có mộng ước bình thường.<br /><br /> Không hiểu sao sáng nay tiếng đàn ma quái đó ám ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái đất này đều yêu thơ, yêu nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh chết sáu năm đâu phải mang thêm tấm thẻ bài nhục nhã.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Với tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp, một tâm sự thật buồn. Tên ông ta là "Vô Thường". Phải rồi anh nhỉ, tất cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là bình thường, chỉ có tình người, tình Quê Hương là vĩnh cửu.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Nếu tiếng đàn của người Tây ban Nha mang âm điệu hoang dại của một dân tộc nồng nàn ham sống, thì tiếng tây ban cầm của Vô Thường mang âm giai của một người lạc lõng, một kẻ du mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa.<br /><br />Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn mang dư âm của tiếc thương nhung nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa, của Quê Hương hiện hữu nhưng quá tầm tay với, của những mộng ước bình thường nhưng đã vời vợi xa bay.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Anh ơi, tiếng đàn ray rứt của người nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức được sự mất mát lớn lao của đời em, tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã nói lên sự uất hận ngàn đời của người dân Việt phải xa lìa tổ quốc thân yêu.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Quê Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm màu, thành phố Huế của chúng mình còn đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu.<br /><br />Nếu biết không có ngày trở lại, thì ngày xưa em đã rủ anh đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người tuy đẹp tuy giàu nhưng vẩn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết thống, thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ lửng đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông vắng mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục nhằn của anh, của những người ngày xưa đã lấy "Tổ Quốc" làm lẽ sống và giờ đã chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai chữ "Phản Quốc" đè nặng linh hồn.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Quê Hương! Quê Hương! Em đang nhớ nhung hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù ghét Quê Hương bấy nhiêu.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ, ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ "Phản Quốc" trên cổ các người ngã ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Lạy trời cho con giấc mộng bình thường, cho còn tìm lại được quê xưa, ngày còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ không phải như bây giờ, sân cỏ làm nông trường, sức người thay máy móc, nhiên liệu, trâu bò.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Em sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ, em sẽ mang nó với niềm hãnh diện vô biên của một người đã có người yêu suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em cũng mang nó để nhắc nhở những người xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp sáng ngày về.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> <br /><br />Thật ra thì đã mười hai năm qua, lòng người đã có phần nào thay đổi. Tháng Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi hai chữ "Phản Quốc" của các anh hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi qua cho mổi người xa xứ thì ngày về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.</span><br /><br /> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">Trong tận cùng linh hồn, em chắc người dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một ngày về, và dù có mất gốc đến đâu thì cũng có một giờ phút trong đời mơ ước về lại quê xưa, thăm lại ngôi nhà cũ.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Anh ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động tận cùng của bà giáo sư người Pháp dạy em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc khi hát cho chúng em nghe một bài nói về thành phố nơi bà đã sinh ra, bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi thổn thức. Bài hát chỉ có thế này:</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> <br /><br />Quand tout renaît à l’espérance</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Et que l’hiver fut loin de nous</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Quand la nature est reverdie</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Quand l’hirondelle est de retour</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> J’aime à revoir ma Normandie</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> C’est le pays qui m’a donné le jour</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> <br /><br />Em tạm dịch là :</span><br /><br /><span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">Khi nào hy vọng trở về</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Và khi mùa Đông đã đi xa</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Khi chim én trở về cùng ta</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Tôi mơ ước nhìn lại Normandie</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Là nơi tôi đã chào đời.<br /><br /></span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">Anh ơi, tình hoài hương bàng bạc trong lòng mọi dân tộc.<br />Em cũng đã khóc khi hát lại bài này. Em không mơ ước nhìn lại Normandie của bà giáo sư người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em ngày xưa.<br /><br />Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy tình người, một Việt Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai chử "Phản Quốc" của anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người cùng huyết thống, cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em muôn đởi vẫn là con bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc bay, cho hồn mơ mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây, cuộc sống sao quá vội vàng, bon chen, lừa lọc.<br /><br />Người ta yêu nhau cũng vội, ghét nhau còn vội vàng hơn.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Mùa Xuân quê người, nhưng cũng là mùa Đông của người xa xứ đang mất mát như em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng khóc nghẹn ngào của người đã mất hết niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của người ở lại ngày nay.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Cầm tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn cái khác đang bị vùi sâu dưới lòng đất mẹ cùng những người con yêu của Tổ Quốc.<br />Em chợt nhớ đến hai câu hát mở đầu trong bài Rêveries của Shumann:</span><br /><br /> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);">"Ce soir dans le jardin du ciel</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent"...</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"> Em hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.</span> <span style="font-weight: bold; font-style: italic; color: rgb(102, 0, 0);"><br /><br />Thanh Vân </span>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-60975397232609838432009-08-20T08:42:00.000-07:002010-03-31T18:51:09.441-07:00Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn Giữa Núi Rừng Việt Bắc<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgNUpY2WncmPyz8qbKEgngbLQMK80l2XmYggWVi__XMLxROeit2ysHIuvEl97GXtR72qXyefwGIFPPguVkgUJVH4Op5y9fgYNOAidejzR4h6Rb0YeK1VecOA2EyFhdp0S5zoVuAcZ7q688/s1600-h/123bocmonguyenvannghia.jpg"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5372075110106393218" style="display: block; margin: 0px auto 10px; width: 400px; height: 300px; text-align: center;" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgNUpY2WncmPyz8qbKEgngbLQMK80l2XmYggWVi__XMLxROeit2ysHIuvEl97GXtR72qXyefwGIFPPguVkgUJVH4Op5y9fgYNOAidejzR4h6Rb0YeK1VecOA2EyFhdp0S5zoVuAcZ7q688/s400/123bocmonguyenvannghia.jpg" border="0" /></a><br /><div><span style="font-size:100%;"><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Đoàn Trọng Hiếu </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Viết để tưởng nhớ quý chiến hữu đã gục chết trong lao tù Cộng Sản, và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Cuối năm 1977, tình hữu nghị anh em xã hội chủ nghĩa giữa Cộng Sản Ta và Cộng Sản Tàu đã trở nên tồi tệ. Đài phát thanh Hà Nội, cái loa tuyên truyền của Cộng Sản Ta đã không còn ra rả phát đi lời tuyên bố của tên Thủ Tướng Đồng “vẩu”. Trước kia, nào là “tình hữu nghị Việt-Trung muôn đời bất diệt” nào là “tình hữu nghị Việt-Trung như răng với môi, môi hở thì răng lạnh” .v.v.. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Vì sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, các tên lãnh đạo Cộng Sản Ta đã ngả theo Nga, mà quên đi cái ơn của Cộng Sản Tàu trong những năm chiến tranh “anh bộ đội cụ Hồ” đã được Cộng Sản Tàu trang bị cho từ chân lên đến đỉnh đầu, từ đôi dép râu làm bằng lốp xe đến cái nón cối đội trên đầu, thậm chí là cả cái bát ăn cơm, anh bộ đội chỉ có duy nhất “cụ Hồ” là của chính anh. Để trừng trị thằng đàn em cứng đầu vong ơn bội nghĩa, Tàu Cộng liền cho tên Miên Cộng Polpốt quậy phá ở biên giới phía Nam. Nhưng tên Miên này không làm nên chuyện, nên Tàu Cộng đã dàn quân dọc biên giới phía Bắc để chuẩn bị cho Cộng Sản Ta bài học số một, và như vậy là răng đã cắn sứt môi. Lo sợ khi Cộng Sản Tàu đánh xuống, anh em tù phía Quốc Gia đang bị giam giữ tại các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ .v.v. sẽ tìm cách trốn sang biên giới phối hợp với lực lượng ly khai của Hoàng Văn Hoan đang được Tàu Cộng ủng hộ, nên gần cuối năm 1977 bọn Việt Cộng đã chuyển anh em tù xuống dần phía Nam đến các trại Vinh Quang hay Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú hoặc các trại Hà Tây hay Nam Hà (Đầm Đùn, Ba Sao) gần Hà Nội. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở các trại do quân đội Việt Cộng quản lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dã man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu chuẩn ăn uống thì bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một thìa cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh.. Họa hoằn, một đôi ba tháng vào các ngày Lễ Tết thì được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đã không còn kéo cày nổi hay bị chết vì không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống như vậy mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến tình trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ còn da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói. </span></em></strong><br /><br /></span><span style="font-size:100%;"><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi. Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ. Sáng hôm sau khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó.Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi”. Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:<br />Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:<br />“Rồi một ngày mai không có anh,em không còn phải nhớ phải mong- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi- Cô đơn ngồi khóc một mình- Không một lần kịp vuốt mắt anh- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,nhìn trông theo cánh chim từng đàn,để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu,bụi thời gian lấp kín hồn mình,đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa,ôi ngày về còn dài bao lâu- Rồi một ngày mai anh chết đi,em không còn phải khóc phải thương- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất,cô đơn phủ kín đời mình.- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”- </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại, thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Chúng bắt đầu xin anh em chép và dạy cho chúng hát nhạc vàng, có tên còn xin đồ ăn và thuốc hút. Những buổi lên lớp do tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị anh em phản kháng bằng cách vỗ tay và cười, đã làm cho hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như lúc hắn khoác lác về tên Phạm Tuân đã bay Mig 21 lên, rồi tắt máy phục kích ở trong mây, đợi B52 đến rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian nghiên cứu bèo hoa dâu để nuôi lợn .v.v. Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng chính tin đồn anh em tù sẽ đi Mỹ, phát ra từ trong đám cán bộ, dân chúng quanh vùng quý tù miền Nam và ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:- Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết. </span></em></strong><br /><br /><strong><em><span style="color: rgb(102, 0, 204);">Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế. Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:- Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa. </span></em></strong><br /><br /><span style="color: rgb(102, 0, 204);"><strong><em>Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.</em></strong> </span></span></div>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-91716374892368549442009-07-24T12:46:00.000-07:002009-07-24T13:53:49.392-07:00THÁNG TƯ ĐỂ QUÊN VÀ ĐỂ NHỚ<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgk4-NQFanql1qMWV8YaAo5-fzNe64wmwh1-91QlLO30xkgHbMgNgrpevPQVJlDKY8_PBdDog5OfXSeCWDGlN-1QUQ3ahA82tJ9rpAy7yA3-m8YC3ZIUC1AKxqTSvHQ5-T6R1eg38uRUXI/s1600-h/tansonnhat.bmp"><img id="BLOGGER_PHOTO_ID_5362116312102337106" style="DISPLAY: block; MARGIN: 0px auto 10px; WIDTH: 400px; CURSOR: hand; HEIGHT: 278px; TEXT-ALIGN: center" alt="" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgk4-NQFanql1qMWV8YaAo5-fzNe64wmwh1-91QlLO30xkgHbMgNgrpevPQVJlDKY8_PBdDog5OfXSeCWDGlN-1QUQ3ahA82tJ9rpAy7yA3-m8YC3ZIUC1AKxqTSvHQ5-T6R1eg38uRUXI/s400/tansonnhat.bmp" border="0" /></a><br /><strong><span style="font-size:130%;color:#660000;">“Các anh là thứ dòi bọ, là những con lợn chụm đầu vào máng tranh ăn, khi ngẩng lên thì lưỡi dao đã kề vào cổ”.</span></strong><br /><br /><strong>Không phải riêng một ai, mà với tất cả quân cán chính và hàng triệu người dân miền Nam khó có thể trong đời quên được chuỗi ngày biến động cuối tháng Tư 1975.<br /><br />Trong tôi chất chứa cả một “ao tù, nước đọng”, khi nào cũng như muốn được khơi giòng cho vơi cạn, một lần với mọi người, từ những chuyện nhỏ tới những chuyện “đại sự ” liên quan đến mệnh hệ chung; cũng là một chuỗi đan kết liên lụy cả một đời người. Tôi đã lăn lóc từ hết ngõ ngách này đến ngõ ngách khác của cuộc sống, đủ mùi vị đắng cay, ngọt bùi; gian lao, hạnh phúc…. Cứ mỗi đoạn đời qua đi là một dấu mốc dĩ vãng in hằn những vết tích trong tâm não. Và cứ mỗi lần đến một chu kỳ thời gian nào đó của mỗi dấu mốc thời gian và sự kiện là trí não lại dội ngược trở về với những tai ách mà người dân nuớc tôi đã gánh chịu suốt gần một thế kỷ vừa qua.<br /><br />Một trong những tai ách trong đời, một tai ách làm rung chuyển đến chín tầng thiên địa, làm héo rũ trái tim, đã ập xuống trên vận mệnh của cả hàng chục triệu con người, mà nếu không chết đi thì ám ảnh đó sẽ khó mà nhạt mờ trong tâm trí.<br /><br />Từ ngày thoát ra khỏi vũng tối u trầm của quá khứ, tất cả những cảnh tượng hãi hùng kinh khiếp ấy như cứ mãi bám lấy con người tôi từng mỗi phút giờ khi ăn, ngủ, làm việc, nghỉ ngơi, ngay cả khi tôi ngồi đơn lẻ ở một nơi nào đó, cũng lẩm nhẩm một mình… hay khi trò chuyện với người khác; nhắc lại, kể lại với bằng hữu, với thân thuộc, với con cháu, với những người vẫn muốn được nghe lại, được nhắc lại, được ghi chép lại cho hôm nay, cho mai sau.<br /><br />Bà chị dâu tôi trước đây vẫn thường lên tiếng như trách ông anh tôi: “Chuyện tù đày, chết chóc ấy có hay ho chi mà cứ nhắc lại, kể lại hoài… ”. Nhưng nhờ “nhắc lại, kể lại” mà các con của anh chị tôi đã biết được và không quên bố của các cháu bị bất ngờ, nghe đọc lệnh bắt giam giữa lớp học của “thiên đường XHCN”, ngỡ ngàng bỏ trường lớp, bỏ học trò vào trại tù tập trung cải tạo.<br /><br />Hầu như tất cả những gia đình Việt Nam từ Nam chí Bắc không ai là không nạn nhân; Và ít ai thoát khỏi hệ lụy chính trị bởi bàn tay đồ đệ Mác Xít, ngay cả bí thư của ông HCM.<br />Biến cố 30 tháng Tư là dấu ấn lịch sử đen tối của dân tộc. Và ngày đó lịch sử không quên, mọi người Việt Nam không quên, anh chị không quên. Nếu anh chị không còn, con cháu anh chị sẽ nhắc lại những gì mà chúng được biết, được nghe, được đọc, bởi anh chị cũng như tôi là nhân chứng thời cuộc, đã ngụp lặn trong đó, đã từng chết lên sống xuống, từng lê lết đi khắp ba miền đất nước, xuống Nam ngược Bắc, vượt biển, vượt rừng, trốn chạy con người, rời bỏ đất nước, để rồi khi đó nhìn lại quê hương, đồng bào chỉ thấy khổ đau và bội bạc. Trong lịch sử cổ kim, có đất nước nào, đồng bào nào như lịch sử VN dưới bàn tay cuồng bạo của người Cộng sản?<br /><br />Đầu năm 1957 tôi đã từng vượt thoát ra khỏi biên cương tổ quốc để được che chở đùm bọc, tránh đại nạn thanh trừng giai cấp… tôi đã đi khỏi chốn thôn quê nghèo nàn tăm tối, nồng nặc oán thù đến nơi thành thị phố xá đất khách quê người; Tôi từng học hành bay nhảy nơi thành phố, xã hội, cộng đồng an vui… rồi một sáng thức dậy hứng chịu cuộc đổi đời tăm tối. Từ ấm no, tự do sung túc đến đói nghèo, cơ cực, xiềng xích tù đày.<br /><br />Mười giờ sáng ngày 30 tháng Tư bảy mươi lăm lịch sử sang trang. Nhưng hai ngày trước đó, ngày 28 và 29 tôi có những ký ức khó quên. Tôi cảm nhận ngày 28 tháng Tư là ngày cáo chung của thể chế dân chủ miền Nam qua hai chế độ đệ nhất và đệ nhị cộng hòa. Tôi cùng hàng triệu người đã “đánh mất” một vùng trời đất nước chọn làm chốn dung thân. Tôi rời bỏ nơi đó vào giây phút cuối cùng của ngày định mệnh trong tiếng thở dài, không nghĩ đến thù hằn, oán hận. Tôi đè nén hết mọi thành kiến ưu tư đổ vào mệnh nước.<br /><br />Trong suốt mười lăm năm hít thở không khí tự do, trong lành của xã hội miền Nam, đến buổi chiều ngày 28 tháng tư tôi đành bỏ lại phía sau quãng đời rộn rã và một khoảng trời xanh ngút mắt. Tôi đã viết ra tâm sự tôi úc đó: “Ngày ta rời trận đồ/ ngả đời đêm hoang vắng/ sơn hà nhuốm tóc tang/ chiến công rời súng đạn/ … Ta quay gót cúi đầu/ trả lại đời tiếng gọi/ giữa vô vàn thương đau/ người bặt câm tiếng nói… (Ngày Xóa Trận đồ, THCM, Cội Nguồn 1996, tái bản 2002)<br /><br />1 giờ chiều ngày 28 tháng Tư cả bầu trời Sài Gòn đen kịt, rồi mưa như trút. Hòa nhịp với trận mưa ngoài trời là không khí ngột ngạt tức tưởi bên trong Hội Trường Diên Hồng, nơi đang diễn ra cuộc chuyển giao quyền lực. Những bài diễn văn hôm đó cũng chính là những bài điếu văn tiễn biệt một chế độ đã tồn tại suốt 20 năm với đủ những buồn vui, hạnh phúc, xứng đáng để một nửa đất nước chiến đấu bảo vệ.<br /><br />Chiều hôm đó tôi đến phòng làm việc, khi trận mưa bắt đầu; và tôi ra về khi mưa vừa nhẹ hạt. Toi6 đuợc giao thu lại hai bài diễn văn, một của Tổng Thống Trần Văn Hương, một của Tướng Dương Văn Minh. Đến giữa bài diễn văn thứ hai, tôi đứng lên, bỏ công việc đó cho người phụ tá giám đốc, cặp mắt tôi cay xè, trí não gần như tê điếng, tôi ra sân lái xe về nhà. Về tới ngõ, đúng vào lúc viên phi công phản tặc Nguyễn thành Trung ném bom phi trường Tân Sơn Nhất. Mấy nguời hàng xóm ra sân la lớn “Nguyễn Cao Kỳ đảo chính”! Tôi mở cửa xe, vội vã lên sân thượng nhìn theo cho đến khi chiếc máy bay A37 khuất hút. Tôi bước vào phòng ngả lưng nằm xuống chiếc ghế đan. Cả thân người mềm nhũn.<br /><br />Suốt đêm 28 tôi chỉ chợp mắt được vài ba lần. Tiếng đạn pháo và hỏa tiễn bốn bề rót vào ngoại ô Sài Gòn réo lên từng đợt như xé tâm can. Tôi ngồi dậy mở đèn sáng để bớt đi cái cảm giác ghê rợn, cảnh những xác người giẫy giụa, những thịt nát xương tan, những khu nhà cháy rực, những tiếng kêu gào thảm thiết, những máu và nước mắt…<br /><br />Sáng 29 tháng Tư, cũng như những ngày khác trong 5 năm trước đó, tôi vẫn ngày hai buổi đi về trên những con đường thân thuộc từ nhà tới cơ quan, nơi đặt tổng hành dinh tình báo chiến lược của miền Nam Việt Nam. 7gờ 30 sáng mỗi trạm gác trên đường Cường Để và cạnh Công Trường Mê Linh, bến Bạch Đằng vẫn có nhân viên an ninh sắc phục canh gác. Tôi lái chiếc xe du lịch rời nhà đến sở với tâm trạng thật bình thản như những ngày thường nhật đi về. Đến đường Cường Để, tôi giảm tốc độ, chìa tấm thẻ an ninh với người lính gác, nở nụ cười chào hỏi quen thân. Người lính gác đưa tay chào. Một cái vẫy tay, chiếc xe lăn chậm. Cửa kính đã quay xuống. Gió buổi sáng trên sông Sài Gòn thổi hắt vào xe một cảm giác dễ chịu. Tôi nghe lòng thanh thản hơn. Chiếc xe dừng lại trước cổng cơ quan, một nhân viên trong toán an ninh cơ sở có mái tóc quăn dúm, người cao to bước ra mở cửa. Hai cánh cửa sắt như hai cánh bướm khổng lồ xòe rộng. Tôi nhìn vào phía trong, một không khí vắng lặng khác hẳn với những thường ngày trước đó. Nhân viên an ninh hỏi tôi: “Hôm nay ông đến sớm” thay lời chào. Tôi đáp lại: “Sớm hơn một tý”. Đi thêm một đoạn đường chừng hai trăm thước, tôi đậu xe phía sau hông tòa nhà ba tầng lầu, nơi tôi làm việc. Tòa nhà lầu này nghe nói được xây dựng từ thời Tây thực dân, đã già hơn trăm tuổi. Tầng thứ ba là nơi làm việc của vị Tướng, Trưởng cơ quan và các phụ tá. Tầng thứ hai dành cho Nha Kế hoạch và lầu trệt là nơi làm việc của Sở An ninh Nội Chính, bí số A10.<br /><br />Tôi làm việc tại tầng lầu dưới cùng này. Cửa văn phòng khép hờ, người trực ca đêm đang nằm trên chiếc ghế bố thấy tôi vào, ngồi bật dậy, thả tờ báo đang cầm trên tay xuống bàn và cho tôi biết đêm qua có mấy gia đình dưới khu Câu Lạc Bộ kéo lên xin ngủ nhờ để tránh pháo kích. Không ai dám cho đám người tránh nạn vào phòng làm việc của cơ quan, dù họ là thân nhân, gia đình nhân viên nội trú. Không ai được vào ngủ trong phòng. Họ nằm chật cả hành lang. Đàn bà và trẻ em. Một trái hỏa tiễn pháo kích rơi cạnh nhà máy phát điện của cơ quan, không gây thiệt hại nào, nhưng tổn thất rất lớn về mặt tâm lý.<br />Nhân viên trực về rồi, tôi thấy căn phòng quen thuộc lâu nay như trống rỗng, như bớt phần thân thiết.<br /><br />Cả toàn bộ khu vực cơ quan còn vắng lặng. Tất cả hoàn toàn yên tĩnh. Tôi mở tủ sắt đọc một trong những bản danh mục hồ sơ lưu trữ. Nhiều ngăn tủ đã trống rỗng sau khi hàng chồng hồ sơ tối mật tôi đã nhận chỉ thị thiêu hủy vào một đêm khuya, mấy ngày trước đó. 8 giờ sáng, nhìn ra ngoài tôi thấy đã có mấy chiếc xe gắn máy, vài chiếc Vespa đậu sát hành lang của những tòa nhà nơi họ làm việc. 9 giờ xe của Trưởng cơ quan đã đậu ở sân sau. 10 giờ tôi và một số người khác được gọi lên trình diện “Ông phụ tá”. Mọi người trong cơ quan vẫn quen gọi ông là “Ông Phụ tá”, mặc dù lúc đó ông đã là Trưởng cơ quan, không còn là phụ tá Kế hoạch của vị tướng tiền nhiệm nữa. Vị tướng – nghe nói đã cùng gia đình rời khỏi nước trước đó mấy ngày. Ông Phụ tá là một Đốc Sự Hành Chánh Thượng hạng Ngoại hạng, ngạch hành chánh cao nhất của công chức miền Nam. Ông cũng là tác giả cuốn sách nổi tiếng “Tử Vi Hàm Số”.<br /><br />Vẫn với cung cách đơn sơ, gần gũi với thuộc cấp, ông cho biết cơ quan đã cử hai giới chức cao cấp sang tiếp xúc với tòa Đại sứ Mỹ để thu xếp cho kế hoạch di tản như đã trù liệu và đã được các cố vấn Mỹ đảm bảo từ mấy tháng trước.. Ông chỉ thị những người có mặt về phòng trấn an nhân viên chờ đợi kết quả từ sứ quán Hoa Kỳ. Nhân viên các phòng chỉ lưa thưa mấy người. Số đông không đến nhiệm sở.<br /><br />Tôi trở về phòng, lẩn quẩn với đủ điều suy nghĩ. Một vài nhân viên ghé vào xin phép tôi được nghỉ để thu xếp việc nhà. Ông trưởng Ban, Phó Ban, không có mặt. Một vài người gọi điện thoại vào hỏi “có gì lạ không”?<br /><br />Tôi kê chiếc ghế bố nằm đọc báo, nghe radio, chờ đợi, không biết là đang chờ đợi cái gì.<br />Thời gian vẫn là những khoảnh khắc tiếp nối trôi qua thản nhiên bình lặng như thể tính vật lý của nó, nhưng hơn tám tiếng đồng hồ hôm đó, một khối nặng tâm lý đè lên, trì kéo, để cũng chỉ tám tiếng đồng hồ như hôm qua, hôm trước trở nên nặng trịch, kéo lê trong não trạng con người.<br /><br />Sau 4 giờ chiều, Ông Phụ Tá, quyền Trưởng cơ quan từ trên lầu đi xuống. Ông vừa bước ra sân, các nhân viên thuộc cấp của ông, trong số có tôi, chạy đến xúm vây quanh ông, như những nạn nhân đang trôi nổi giữa dòng bám vào chiếc thuyền mong cứu hộ.<br /><br />Với khuôn mặt hiền từ, nhã nhặn cố hữu, ông nói với khoảng hơn chục người bu quanh ông:<br />“Ông Tm và Đại tá Tn được cử sang Tòa Đại Sứ Mỹ thu xếp cho cuộc di tản của chúng ta đã lên máy bay đi rồi. Thôi, các anh về đi, mỗi người tự thu xếp, lo cho gia đình. Tôi cũng như các anh”.<br />Vài anh em nhìn ông tỏ vẻ không tin: “Ông Phụ Tá có thông hành rồi phải không? Còn chúng tôi làm sao mà tự lo liệu được”. Một anh khác chen vào: “thì cùng nằm bên nhau trong đống xương vô định”.<br /><br />Không còn gì nữa để nói, vài câu chuyện như nói lên lời an ủi, nói lên điều âu lo, tất cả nhìn lại từng dãy nhà, từng phòng làm việc, như quyến luyến giã từ một nơi chốn thân yêu trước khi từ giã nhau, vội vã ra về. Mạnh ai nấy lo.<br /><br />Sau khi vào trại Long Thành, tôi gặp lại ông Phụ Tá nhiều lần trong sáu tháng đầu chung trại. Ông Phụ Tá đã chết trong một trại tù cải tạo ngoài miền Bắc của ba miền ruột thịt.<br /><br />BÀI HỌC ĐỔI ĐỜI<br /><br />Tôi dạy học ở trường Trung Học Phan Sào Nam Sài Gòn từ năm 1966 đến năm 1975, trừ một niên khóa gián đoạn khi tôi vào quân trường Thủ Đức. Vài tuần lễ sau khi cộng sản tiếp thu Sài Gòn, “mùi vị” tôi nếm thử đầu tiên trong cuộc đổi đời ấy là khi tôi tham dự buổi họp bàn giao cơ sở Trường Trung Học Phan Sào Nam Sài Gòn cho “Sở Giáo Dục và Hội Nhà Giáo Yêu Nước” thành phố. Buổi họp, phía “bị cáo” gồm Ban Giám Đốc với Nghị Sĩ Thái Lăng Nghiêm (Hiệu Trưởng), các ông Phạm Thanh Giang (Giám đốc), Phạm Chí Chính (Giám Học), Đỗ Văn Khuôn (Tổng Giám Thị). Một số giáo sư cùng các giám thị, nhân viên văn phòng và lao công… tôi không nhớ hết tên. Hôm đó vắng mặt hai người trong Ban Giám đốc, GS. Đào Văn Dương, người phụ trách tài chánh, mà chúng tôi gặp ông hàng tháng để lãnh lương; và ông Phó Tổng Giám thị Sầm Quang Linh. Thật là một thích thú, tình cờ mới đây tôi biết cụ Sầm Q. Linh là nhạc phụ của anh Thân Trọng Nhân, Nguyên Chủ tịch Hội Ái Hữu cựu SV Hạn Hạnh. Anh cũng có dạy ở Phan Sào Nam.<br />Trở lại buổi trình diện và bàn giao trường ốc cho “Hội Nhà giáo yêu nước”, mặc dù tôi đã từng chứng kiến những màn con đấu cha, vợ tố chồng, học trò trấn áp thầy giáo “phản động” trong thời kỳ Cải cách Ruộng đất, nhưng sau hai mươi năm thoát khỏi cõi trầm luân có thực ấy, tôi đã bàng hoàng đến ớn lạnh khi nhìn tận mắt, nghe tận tai lời tố cáo bịa đặt độc ác đã được nhồi nhét vào những tâm hồn trong trắng, ngay tại một phòng học mà chỉ mới mấy tuần lễ trước đó đạo đức, lễ giáo học đường từ xa xưa vẫn còn là đường cân nẩy mực của xã hội miền Nam. Tôi rùng mình, đầu óc qay cuồng với những màn đấu tố rùng rợn mà thời niên thiếu tôi vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân.<br /><br />Hai học sinh lớp 11, vẫn với nét mặt non choẹt, trong bộ đồng phục học sinh, áo sơ mi trắng, quần xanh blue thay phiên nhau lên tiếng tố cáo Ban Giám Hiệu và các thầy cô là tay sai của Mỹ Ngụy, bóc lột nhân dân qua hình thức thu học phí làm giàu trên công sức của người nghèo! Mọi người, trong đó có những thầy giáo mới vài tuần trước đó đứng trên bục giảng truyền thụ kiến thức và lời hay ý đẹp cho những đứa học sinh này.<br /><br />Một giờ chiều, cuộc “bàn giao” chấm dứt với sự “thỏa thuận” kết cuộc của ban Giám Đốc nhà trường ký biên bản “tặng” toàn bộ cơ sở trường ốc cho hội Nhà Giáo Yêu Nước. Ông giám đốc (chủ trường) và vợ con được phép ở lại một phòng trên lầu thứ tư, nơi mà gia đình ông đã ở và có sổ Gia đình từ nhiều năm trước.<br /><br />Tôi nhận mảnh giấy chứng nhận “Đã Trình Diện” do ông Hiệu trưởng Nguyễn Văn Tâm tức NS Thái Lăng Nghiêm ký rồi ra về mang theo tâm trạng rã rời cho đến ngày trình diện vào tù.<br /><br />Mười giờ sáng ngày 12 tháng 6 -1975 tôi khăn gói đến trường Chu Văn An, đóng 13.500$ tiền VNCH, theo thông cáo “học tập” trong một tháng. Vừa bước vào phòng “tiếp quản”, tôi gặp hai cậu học trò cũ cũng tại trường Phan Sao Nam làm nhiệm vụ kiểm tra hành trang của người trình diện. Hai em học sinh ấy thấy tôi, tiến lại và lên tiếng: “Thầy cũng đi vào đây à? Thầy cho chúng em kiểm soát”. Tôi chỉ kịp nói – “Vâng”. Hai kiểm soát viên liền kéo fermeture túi xách của tôi, lôi ra vài bộ đồ lót và đồ ngủ, bàn chải, kem đánh răng… Tôi chỉ mặc một chemise, quần tây trên người. Sau khi xét xong hành lý, tôi giơ hai tay lên để các em kiểm soát thân thể. Xong “cửa ải” thứ nhất này tôi vào phía trong, nơi kê mấy dãy bàn, có nhiều cán binh mặc đồ bộ đội thu tiền và dẫn tôi vào phòng đã có nhiều người ở đó.<br /><br />Trong hai ngày tại đây các bữa ăn trưa và chiều do nhà hàng Bách Hỷ, đường Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn chở xe van đến. Bữa ăn có nhiều món thịnh soạn gần như tiệc cưới. Ba ngày sau lệnh trình diện, gần nửa đêm 16 tháng 6 mọi người bị đánh thức dậy, đem hết xách gói ra sân tập họp chờ xe di chuyển. Đi về đâu? Là câu hỏi lúc bấy giờ mọi người thầm thì bàn tán. Chỉ có trời biết. Chúng tôi nằm nhoài giữa sân hứng sương đêm cho tới sau 5giờ sáng mới có xe tới chở đi. Đến làng cô Nhi Long Thành khi trời còn tờ mờ, sương mù đen kịt. Mọi người được đổ xuống. Chỗ ở đã được quy định theo ban ngành. Có 5 khu, họ gọi là 5 khối. Chúng tôi gọi đùa là năm vùng chiến thuật. Khối I thuộc các quan chức hành chánh. Khối II dành cho các “bô lão” đảng phái. Khối 3 nơi hội tụ của các giới chức an ninh tình báo mà lúc ngoài đời ít có dịp gặp nhau; hoặc giả nếu có gặp, thậm chí quen thân cũng không biết “nghề nghiệp” của mỗi người, không biết gốc gác của nhau. Khối IV là nơi họp mặt của các quan Cảnh Sát từ cấp Tá trở lên; và khối V là khu biệt lập dành cho phái Nga Mi, trong đó có nàng Nguyễn Thị Thanh Thủy/ Đại Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, “Chỉ Huy Trưởng” Đội Thiên Nga, Nàng Đỗ Thị Đẹp/ Trung Ương Tình Báo, nhân viên phát hành của Paris By Night mà mấy năm trước bị đả đảo ào ào vì vụ ‘lúa đỏ”. Một nàng khác tôi được nhiều bạn tù quả quyết là người đẹp Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn. Không biết thật hay giả, hay do nàng có tên là Diễm nên được “huyền thoại hóa”?<br />Cũng có một số nữ Sinh viên, nữ công chức trẻ, là những bóng hồng ít nhiều đã đem lại chút tươi mát giữa những khô khan đặc quánh của tình cảm yêu thương bởi sự cấm đoán và ly cách. Có một cô Sinh viên Văn Khoa thuở đó đem tuổi trẻ và nhiệt huyết cống hiến cho lý tưởng mà cô theo đuổi đến tận bây giờ nên cũng có mặt trong đám “Nga Mi”. Hiện “nàng” đang là một cây viết cộng tác với tạp chí Nguồn.<br /><br />Ngày đầu tiên tại Long Thành từ lúc tờ mờ sáng đến chiều tối không có bóng dáng một bộ đội, công an nào. Mọi “học viên” thoải mái với nhau, và cũng không cơm, không nước, cho tới khi mặt trời gần tắt, choạng vạng tối mới thấy người ta đẩy vào mỗi dãy nhà (trên 70 người) một cái thùng nhựa đựng cơm, cỡ thùng rác 32 galon. Dù đã nhịn ăn trên 24 giờ đồng hồ, tôi cũng không buồn chen lấn để lấy một chén cơm đầy sạn, thóc. Nhiều người bỏ cơm đi tìm thùng nước trong cơn khát đã gần lả người.<br /><br />Màn đêm phủ trùm, cả ngọn đồi chìm trong bóng đen tĩnh mịch, tiếng dế rả rích, âm thanh nhiều loại côn trùng như một hợp khúc réo rắt xoáy vào tâm trạng mỗi con người đang thả bao nhiêu suy nghĩ về cha mẹ, vợ con, gia đình; ưu tư trôi đi trăm chiều vạn hướng. Nếu nhìn thấy, chắc chắn trên mỗi khuôn mặt mỗi người lúc ấy hiện rõ nét đăm chiêu, khắc khổ. “Chân lý cách mạng” mà ngày nào Tố Hữu thấy bừng lên danh vọng của ông ta thì giờ ấy như những tia chớp hãi hùng đang lóe lên trong cơn bão đời của hàng chục, hàng trăm ngàn người bất hạnh.<br /><br />Rồi từng ngày, từng tuần lễ, từng tháng trôi đi trong tâm trạng nặng nề của mỗi người. Không ai giống ai. Lớp người có tuổi, phần đông thuộc các đảng phái, thành phần Bắc di cư họ có thừa kinh nghiệm về sự tráo trở lật lọng trong ngôn từ, chữ nghĩa và mưu mẹo, xảo thuật của “người anh em” nên ngay từ đầu họ an tâm “học tập”. Các bác, các cụ bắt đầu xới đất trồng rau, trồng ớt, trồng khoai lang. Những người khác thấy vậy la lên “Ông trồng cho ai ăn đó”? Lớp trẻ và đa số dân “Nam Kỳ quốc” chưa biết mô tê gì về cộng sản nên lúc ngoài đời xuề xòa dễ dãi. Gia đình bên cạnh có con em đi tập kết, chạy ra bưng biền, kệ nó. Ta cứ ngày hai buổi đi ăn đi làm. Khi “Cách mạng” từ rừng rú về thành, đám con em họ về theo dẫn thêm mấy đồng chí đi lùng sục từng nhà “ngụy quân, ngụy quyền ác ôn” đem giao cho cách mạng xử lý. Khi vào trại “học tập” họ cứ tin răm rắp một tháng là về nhà. Có anh dự tính cưới vợ làm ăn, có anh quyết định đổi nghề về hưởng thú đồng quê làm ruộng, đào ao nuôi cá. Từng ngày từng giờ cứ mong được “lên lớp” được học tập sớm thấm nhuần “chính sách khoan hồng” của cách mạng.<br /><br />Ngày tháng cứ trôi đi, cổ cứ dài ra vì trông ngóng, mỗi người chỉ còn lại một cái quần xà lỏn che vùng ngã ba, với chiếc áo may-ô đã te tua, lem luốc. Ban đêm mặc bộ đồ ngủ, ban ngày xà lỏn may-ô. Nhà mái tôn nằm phơi trên ngọn đồi nắng quanh năm, nóng như lửa. Thế là chỉ mấy tháng nhờ cách mạng, mọi lớp vỏ bên ngoài ở mỗi con người cùng một giai tầng xã hội, dù chênh lệch chức tước, địa vị giàu nghèo có khác, đã được lột bỏ đi, để trơ ra cái/ nơi che giấu. Lúc này nhân cách con người bắt đầu hiện lộ.<br /><br />Thời gian cứ nặng nề trôi đi. Lòng người như những đám mây chở nặng nỗi niềm chung riêng trĩu nặng, lửng lơ giữa bầu trời xám xịt. Với “cách mạng” còn năm dài tháng rộng, cứ nhẩn nha. Cái mẻ lưới quyết định đã kết quả mỹ mãn, hốt trọn được toàn bộ đầu não một guồng máy chính quyền gom vào rọ. Cứ thả lỏng cho “chúng” để tránh có phản ứng rắc rối; cũng để thời gian nguôi ngoai, dùng sức ép nhè nhẹ, từ từ trước sau cũng sẽ đến đó.<br />Kinh nghiệm chính sách tập trung tiêu diệt người Do Thái của Đức Quốc Xã cho thấy kết quả nhanh gọn đấy nhưng nó kinh khủng quá, dễ đánh động lương tâm con người. Ở đây chỉ “tập trung cải tạo”, không có lò sát sinh, không có phòng hơi ngạt, không bỏ đói đến chết sắp chồng lên nhau. Phải để “chúng” chết dần chết mòn, hãy để “chúng” cạn kiệt thể xác để chúng bán linh hồn.<br /><br />Từ ngày gom về để đó, vài ba tháng sau mới làm danh sách, khai báo qua loa. Sáu bảy tháng sau “học tập” chiếu lệ. Các buổi “học tập thảo luận, “thu hoạch” từng tổ, từng nhóm, từng đội nhằm trắc nghiệm tư tưởng từng người, kết quả tốt. Mọi ý kiến đều hoan hô cách mạng, tuyệt đối tin tưởng vào chính sách của đảng và nhà nước. Một anh chung phòng chung đội với tôi, tên Lê Hữu Lợi tuyên bố công khai trước mọi nguời trong buổi học tập rằng anh ta là một “đầu mối” (nằm vùng) của cách mạng. Chính sách của cách mạng là như thế này, thế này… các anh phải thế nọ, thế kia… Nhưng khi biên chế ra Bắc anh có tên trong danh sách hàng đầu, đi mút mùa tới mãi Hoàng Liên Sơn.<br /><br />Trước khi có những đợt khai báo, thỉnh thoảng lại có một đợt thả về. Lúc năm bảy người; có đợt vài ba chục. Một số háo hức, nôn nóng đợi chờ, tràn trề hy vọng. Những người hiểu chuyện cứ tỉnh bơ, “an tâm tin tưởng” chờ năm bảy năm, hay một hai chục năm, lấy trường hợp một tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa bị Trung Cộng giam mới được thả sau 26 năm đúng vào lúc hàng ngàn “Quốc Dân Đảng” VN mới nhập trại giam Việt Cộng ra làm niềm tin.<br /><br />Trong số những người được thả, có người biết trước, có người khi được gọi tên mới biết mình đến số thoát cõi trầm luân, nhưng không biết do đâu. Phần đông những người được thả sớm từ trại Long Thành đều có một “dây mơ rễ má” nào đó. Người nằm bên cạnh tôi, anh Phan Khắc Thụy. được về sau hơn hai tháng là cháu ruột của Linh mục hốt rác Phan Khắc Từ. “Linh mục hốt rác” là hỗn danh do báo chí Sài Gòn trước 75 đặt cho ông cha này vì ông nhân danh “giai cấp công nhân hốt rác hợp sức cùng các linh mục Trương Bá Cần (tên thật Trần Bá Cương), LM Nguyễn Ngọc Lan (về sau đã cởi áo dòng, cưới vợ), và LM Chân Tín quậy phá náo loạn, làm mất thế ổn định chính trị và xã hội mấy năm ở Sài gòn.<br />Chu Tam Cường là Giám Đốc Gia Cư Liêm Giá Cuộc tại đường Trương Công Định, Quận Ba (Sau 75 đổi tên là Sở Nhà Đất), Cường trình diện nhập ngũ cùng khóa với tôi ở Quang Trung. Đương sự được trở về nhiệm sở sau 9 tuần thụ huấn quân sự. Vào Long Thành bảy tuần lễ sau có danh sách gọi tên ra trại. Hỏi ra mới biết là được tướng Chu Huy Mân từ ngoài Bắc bảo lãnh. Nguyễn Đức Ninh người chung phòng với tôi, cho biết anh ta có người bà con làm lớn từ Hà Nội vào công tác, bảo lãnh, được về sau bảy tuần lễ.<br /><br />Cao Long Thọ. một sĩ quan cấp úy gốc tình báo, làm việc tại Bộ TL/CSQG, được về trong đợt đầu. Trường hợp của Cao Long Thọ đúng là “Tái ông thất mã”. Thọ và tôi vừa đi làm vừa đi dạy học. Chúng tôi thường gặp nhau ở những lớp đêm dạy luyện thi và một số giờ ban ngày ở trường Phan Sào Nam, có tình thân thiết. Thọ ra tay “nghĩa hiệp” ký tên bảo lãnh cho một sĩ quan cấp tá VC bị bắt, xin cải ngạch hồi chánh. Quy chế lúc bấy giờ ấn định một sĩ quan VC bị bắt muốn được hưởng quy chế hồi chánh để cộng tác làm việc hoặc được trở về nguyên quán làm ăn phải có ba người ký giấy bảo lãnh, hai người phải là sĩ quan quân đội hoặc Cảnh Sát. Một hôm tôi gặp Thọ tại trường, nét mặt anh buồn và lo lắng, nói với tôi: “Thằng VC tôi bảo lãnh cho nó, nó đã bỏ trốn vào bưng rồi. Không biết tôi sẽ lãnh cái gì đây”? Thọ Mang tâm trạng lo âu hồi hộp ấy cho tới ngày “rã ngũ”, chúng tôi gặp lại nhau tại Long Thành. Vài ba tháng sau Thọ được hồi chánh viên trước kia đón về trả cho gia đình. Năm 1985, tôi ra tù về Sài Gón gặp Thọ trên đường Võ Tánh, khu Ủy Hội Quốc Tế cũ. Tôi ngạc nhiên hỏi: - Sao không dzọt đi mà còn ở đây? Làm ăn cái gì? Anh ta than không vượt biên được và cũng chẳng làm được cái gì.<br /><br />Sống lây lất, khó khăn. Sau ngày có chương trình HO tôi lại gặp Th. Lúc này anh ta tỏ ra đau khổ hơn vì không có tiền vượt biên, không đủ tiêu chuẩn (trên 3 năm cải tạo) để đi HO giữa khi thiên hạ chộn rộn làm thủ tục xuất cảnh. Nay không biết cuộc sống anh có khá hơn sau thời kỳ đổi mới không.<br /><br />Cũng có vài ba trường hợp “học viên” được cho “về phép” khi có người thân (cha mẹ, vợ, hay con) chết, nếu có người bào lãnh. Tôi nghe nói Dân biểu Võ Long Triều cũng được ký giả VC nằm vùng Cung Văn bảo lãnh về phép một lần. Cung Văn là thư ký tòa soạn tờ Đại Dân Tộc của Võ Long Triều, cùng với tờ Điện Tín của Nghị sĩ Hồng Sơn Đông, mà thư ký tòa soạn cũng là ký giả VC nằm vùng, Huỳnh Bá Thành, và tờ Tin Sáng của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung hợp lực “đâm sau lưng chiến sĩ” đánh phá chế độ một cách điên cuồng. Cung Văn tên thật là Nguyễn Vạn Hồng, trình diện nhập ngũ cùng khóa với tôi. Tôi quen biết anh ta do hai người chụp hình căn cước quân nhân chung một “pô”. Ng. Vạn Hồng được Việt Tấn Xã can thiệp cho trở về nhiệm sở. Sau khi biệt phái về làm việc tại Sài Gòn, tôi gặp NVH một hai lần, nhưng tôi không hề biết anh ta là Cung Văn.<br /><br />Tại Long Thành một lần có phái đoàn Võ Văn Kiệt và Phạm Hùng vào quan sát trại, đi tới từng dãy nhà. Tôi ngỡ ngàng thấy có NVH mang xà cạp đội nón cối, mặc thường phục đi trong đoàn. Tôi tránh không để anh ta trông thấy tôi. Tôi nói với một người bạn về NVH, không ngờ anh bạn này biết rành rõ, nói với tôi: “Cung Văn đấy. Hắn làm cho tờ Đại Dân Tộc của Võ Long Triều đấy. Hắn từng lãnh VLT về thăm nhà”. Cách đây mấy năm, trong một bữa cơm thân mật tại nhà hàng Cao Nguyên ở San Jose (do nhà thơ Phạm Ngọc mời, có con trai nữ nghệ sĩ Hồ Điệp tham dự), Chủ bút một tạp chí văn học kiêm TTK một tuần báo ở California nói với tôi: NVH, sau 30 tháng Tư 75 đóng vai đạp xích lô. Anh ta gợi chuyện với khách, chửi bới, nguyền rủa VC hết lời. Người khách nào phụ họa chửi theo liền được anh phu xích lô chở thẳng đến trụ sở công an. Huỳnh Bá Thành sau 75 nắm tờ Công An, chết năm 1992 vì “tai biến mạch máu não” và Cung Văn viết cho tờ Sài Gòn Giải Phóng. Mấy năm trước đây có sang Mỹ để được nhìn ngó cái vĩ đại của xứ sở “đế quốc” mà anh từng nguyền rủa.<br /><br />Trên ba ngàn sĩ quan viên chức cao cấp của VNCH tập trung tại Long Thành từ ngày 16 tháng 6-1975, sau gần một năm được phân tán đi các trại tù, phần đông ra Bắc. Một số không ít bỏ xác nơi núi rừng quạnh hiu, hẻo lánh. Số người sống sót trở về, đại đa số đã đi định cư ở các nước thế giới tự do.<br /><br />Sau 34 năm chết đi sống lại, ngày nay có những chiến hữu, có những bạn tù từng chia sẻ đắng cay, tủi nhục, đã vội quên những năm tháng đọa đày nhục nhã ấy mà quay lưng lại với nhau, chỉ vì những tị hiềm, ganh ghét, nông nổi, nhỏ mọn…<br /><br />Hẳn tất cả những ai từng qua trại Long Thành không quên lời mạ lỵ của một “giảng viên” cộng sản: “Các anh là thứ dòi bọ, là những con lợn chụm đầu vào máng tranh ăn, khi ngẩng lên thì lưỡi dao đã kề vào cổ”. Tôi tin rằng đây là lời cảnh báo đối với các đảng viên và lãnh đạo đảng CSVN ngày nay, hơn là lời nguyền rủa nhắm vào các giới chức VNCH thời bấy giờ.<br /><br />Song Nhị<br />(Trích Hành Trình Biệt Xứ)</strong>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-846923100095248262009-06-05T13:58:00.000-07:002009-06-05T14:17:46.263-07:00Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgwfbro5juOygO9mcwjY9YV5GdQvpBF-Rby0Yt4Kt-zap6FLgjlsb42msfShoKEXiE-NuGzCbF_z7Z4TQFma3xDxdZChpNGLnZOwdM7iXF2vkc9dWqCxG_KFXkE3RbcwqWIlECHuR4mi74/s1600-h/giaido.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 134px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgwfbro5juOygO9mcwjY9YV5GdQvpBF-Rby0Yt4Kt-zap6FLgjlsb42msfShoKEXiE-NuGzCbF_z7Z4TQFma3xDxdZChpNGLnZOwdM7iXF2vkc9dWqCxG_KFXkE3RbcwqWIlECHuR4mi74/s400/giaido.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5343955636177838114" /></a><br /><strong>Nói Chuyện Với Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai <br />Tạp Chí TRẺ , Jun 02, 2009 <br />Lời nói đầu của Phóng viên Tạp Chí Trẻ: Qua lời giới thiệu của anh Nguyễn Trọng Huấn, một Cựu Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến, thành viên Hội Quảng Đà Dallas-Fortworth, Texas, đã đưa chúng tôi đến thăm Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai tại Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt Cao Niên Garland, Texas <br /><br />Chúng tôi đến Trung Tâm vào giờ ăn trưa của các cụ nơi đây và được bác Đỗ, Giám đốc Trung Tâm tiếp đón. Bác Đỗ nhờ người thưa với Cựu Thiếu Tường Đỗ Kế Giai là có nhà báo chúng tôi xin được gặp ông, và mời ông Tướng ra phòng khách để cho chúng tôi được gặp, bác Đỗ cho chúng tôi biết ông Đỗ Kế Giai hôm nay không được khoẻ lắm.. <br /><br />Rồi tôi thấy Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đi vào phòng khách của Trung Tâm. Hình ảnh một vị cao niên chống gậy vẫn không che được phong cách và uy nghi của một vị Tướng lãnh từng một thời oai vũ. <br /><br />Chân dung và tiểu sử Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai được ghi lại không đầy đủ như sau: Ông xuất thân Khoá 5 Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, ra trường Tháng 4/1952, ông về phục vụ Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đóng ở Hà Nội. Năm 1954, ông là sĩ quan hành quân “Officier Adjoint” cho Thiếu tá Mollo ở Đồng Đế, Nha Trang, với cấp bậc Trung úy. Cấp bậc cuối cùng của ông là Thiếu Tướng Biệt Động Quân, chỉ huy Lực Lượng bảo vệ Sài Gòn cho tới khi nhận lệnh buông súng… <br /><br />Những người đàn anh của tôi ở đây là những cựu Trung úy, cựu Đại úy đang làm thiện nguyện ở Trung Tâm, các anh lo bữa ăn trưa cho vài chục cụ người Việt cao niên ở đây, các cụ đang… nói chuyện, chơi cờ, xem ca nhạc Asia và chờ cơm. Thấy Thiếu Tướng đi tới các anh đến mới ông đến chiếc ghế êm ả nhất phòng. Tôi cúi chào Thiếu Tướng. <br /><br />Phóng Viên Trẻ: “Thưa bác, cháu là phóng viên Tạp Chí Trẻ. Xin được chào bác, chúc bác sức khoẻ. Xin được hỏi bác đôi điều…” <br /><br />Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai: “Từ ngày xưa, tôi đánh giặc đã không thích kể chuyện đăng báo vì kể lể chiến công với báo chí tôi cho là việc tự kể cho đối phương nghe, biết chiến thuật của mình” <br /><br />PV Trẻ: “Thưa bác, cháu xin không hỏi bác nhiều về những chuyện đã qua. Thay mặt Nhóm thực hiện báo Trẻ, cháu đến thăm hỏi sức khoẻ bác vì được nghe bác đã tham gia sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên Garland.” <br /><br />CTTĐKGiai: “Nếu anh muốn hỏi gì thì phải đợi tôi nói xong hãy hỏi tiếp, đừng hỏi ngang làm tôi quên chuyện tôi đang nói…” <br /><br />PV Trẻ: “Thưa bác, bác có viết quyển hồi ký nào không?” <br /><br />CTTĐKGiai: “Tôi không viết hồi ký vì những đánh bóng cá nhân hay chạy tội trước lịch sử đều không phải là hồi ký. Theo thời gian, tôi chỉ nói ra những gì tôi thấy là cần thiết…” <br /><br />PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã trả lời. Xin hỏi bác đã đi “cải tạo” bao nhiêu năm?”<br />CTTĐKG: “Tôi không có đi cải tạo. Tôi đi tù.” <br /><br />PV Trẻ: “Xin lỗi bác, cháu chỉ muốn dùng lời nói cho nó nhẹ nhàng thôi!” <br /><br />CTTĐKG: “Ngày tôi đi phỏng vấn ở Trụ Sở ODP để sang đây, có người thông dịch viên cũng hỏi tôi một câu như thế. Tôi cũng trả lời rõ ràng như thế. Và ông nhân viên Mỹ nói luôn với tôi: “Mời ông ký giấy tờ để hoàn tất thủ tục.” <br /><br />PV Trẻ: “Thưa bác, thời gian… ở tù của bác bao lâu?” <br /><br />CTTĐKG : “17 năm thiếu 10 ngày.” <br /><br />PV Trẻ: “Xin hỏi: Có phải bác là người đi tù sớm nhất và về trễ nhất?” <br /><br />CTTĐKG: “ Có thể. Ngày 15 tháng 5, 1975, họ đến nhà tôi, mời tôi đi họp nhưng thật ra là bắt tôi đi luôn từ đó. Lệnh tập trung những sĩ quan Quân lực VNCH vào Tháng 6, họ bắt tôi giữa Tháng 5. Có thể tôi là người đi tù sớm nhất!” <br /><br />PV Trẻ: “Nhưng khi ấy họ chưa tổ chức kịp những trại tập trung thì họ đưa bác đi giam ở đâu?” <br /><br />CTTĐKG: “Khám Chí Hoà. Một năm sau họ đưa tôi từ Nhà Tù Chí Hoà đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cũ. Bữa sau nữa, họ đưa tôi ra Bắc.” <br /><br />PV Trẻ: “Bác tù ở ngoài Bắc 17 năm. Khi trở về Nam, bác thấy miền Nam sau 17 năm kiểu cộng sản “giải phóng” thế nào?” <br /><br />CTTĐKG: “Tôi không thích tiếng: giải phóng”! <br /><br />Bác Giai im lặng-hồi tưởng. Mọi người im lặng-chờ đợi. Ở đây chỉ có những người trẻ làm thiện nguyện là đến trung tâm sinh hoạt cao niên này để phục vụ người già. Trong thái độ, ánh mắt, giọng nói của những người lính cũ, tôi cảm nhận được sự kính trọng Tướng Giai của họ như ngày họ còn tấm thẻ bài lính chiến trên ngực. Hình như với những người lính cũ, kỷ luật quân đội vẫn sống trong họ. <br /><br />Bác Giai nói tiếp: “Hôm đó trong trại tù, một người thuộc Mặt Trận Giải Phóng miền Nam nói với tôi: “… Trong Quốc ca của các anh có câu: Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…, thì hôm nay chúng tôi đã giải phóng cho các anh rồi! Còn thắc mắc gì nữa!” Tôi nghe anh ta nói câu đó thì tức đến chết được, để rồi tôi nói cho các anh nghe về lịch sử bài quốc ca của Quốc Gia VNCH…” <br /><br />Cuộc nói chuyện ngưng vì bác Đỗ đến mời vị Cựu Tướng đi ăn cơm, anh Tuấn và tôi được mời cùng ăn với vị Cựu Tướng. Bác Giai chống gậy, đi đứng đã có phần khó khăn, nhưng vẫn đi được một mình. Nhìn bác tự lo cho mình bữa ăn, tôi không biết ngày xưa, cấp Tướng thì có bao nhiêu người phục vụ? Tôi thấy ở ông phong cách tự tại, bình thản của một cụ già người Việt trong Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên. Một chút ngậm ngùi nổi lên trong lòng tôi dù tôi thấy là vô lý. Bác Giai rất an nhiên, tự tại. <br /><br />Tôi nói với bác Giai: “Hôm qua, cháu nói điện thoại với cô Kiều Mỹ Duyên. Cô gởi lời thăm bác.” <br /><br />Ông ngồi yên như hồi tưởng lại những người quen biết cũ. <br /><br />Thấy ông có vể xúc động, tôi hỏi thêm câu nữa: “Ngày xưa, chắc cô Kiều Mỹ Duyên đẹp lắm hả bác?” <br /><br />Ông cười, nụ cười bí hiểm với ánh mắt trầm mặc sau làn kính cận dày. Nhưng sau đó… ông tỏ ra bớt “quạu”, chắc tâm tư sảng khoái nên ông ăn cơm thấy ngon. <br />Tôi hỏi: “Cơm ngon không bác? Cháu thấy món thịt kho rất ngon.”<br /><br />Ông trả lời nhẹ nhàng: “ Ngon hơn cơm tù.” <br /><br />Trên chiếc bàn trải khăn trắng muốt, đơn sơ, mỗi người một đĩa cơm có thịt kho, cải xào, chén canh đậu hũ trắng nấu với cà chua và thịt bằm. Trước mặt có ly trà, trái chuối để tráng miệng. Một phần ăn trưa rất bình thường ở Mỹ, bình thường đến nỗi người ăn chỉ làm công việc ăn chứ ít ai nghĩ đến ân sủng của Ơn Trên đã ban cho lương thực hàng ngày hay công lao người nấu bữa ăn, hoặc tiền chợ có từ đâu? Nhưng nghe bác Giai vừa ăn vừa nói chuyện, mọi người như mới nhận thức ra giá trị của bữa ăn hàng ngày, bác nói: <br /><br />“Từ ngày tôi ra tù đến nay, không bao giờ tôi bình phẩm về món ăn.” <br /><br />Là một phóng viên chuyên thực hiện những cuộc phỏng vấn, nhưng lần này có lẽ là lần thứ nhất tôi không muốn đóng vai trò phóng viên đặt câu hỏi mà chỉ muốn ngồi nghe câu chuyện của một chứng nhân lịch sử, một trong những “Tự điển sống” hiếm hoi còn lại tới bây giờ. Những câu hỏi về lịch sử không phù hợp với không gian, thời gian. Từng câu hỏi như những mũi kim chích vào ung nhọt quá khứ, nó có cái “đã” của một vết thương mưng mủ được tuôn ra, nhưng tiếp theo sau là nỗi buồn vết sẹo không lành sau mỗi câu trả lời của vị Cựu Tướng. Tôi tự thấy mình có lỗi trong những câu hỏi có thể gợi sự bất an, hay không vui trong lòng vị Cựu Tướng nên tôi chuyển sang chuyện khác, may ra cuộc trò chuyện được vui vẻ hơn. <br /><br />PV Trẻ: “Thưa bác, hiện nay bác đến Trung Tâm này sinh hoạt hàng ngày hay sao?” <br />CTTĐKG: “Không, một tuần tôi đến đây ba ngày thôi.” <br /><br />PV Trẻ: “Vậy, những ngày ở nhà thì bác làm gì? Bác đang sống với ai?” <br /><br />CTTĐKG: “Tôi sống với hai người con trai của tôi, hai con tôi qua đây đã lỡ tuổi, dở dang mọi chuyện nên chúng không lập gia đình. Công việc hàng ngày thì tôi làm được gì thì làm, được tới đâu hay tới đó.” <br /><br />PV Trẻ: “Bác có thường xuyên liên lạc với bạn hữu và các vị tướng lãnh xưa không ạ?” <br /><br />CTTĐKG: “ Ít khi. Từ hôm ra tù đã thế. Ngày ra tù, họ cho hay trong nửa ngày phải thu xếp rời trại. Tưởng chuyển trại thôi vì tôi tin là tôi sẽ ở tù tới chết. Không ngờ họ cho về. Tôi với Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Lê Minh Đảo là 4 người trong 100 người mà họ muốn giam tù cho tới chết. Nhưng nhờ sự đấu tranh của các chiến hữu, các vị đồng hương ở hải ngoại, tạo thành áp lực buộc họ phải thả chúng tôi. Bốn người chúng tôi là đợt cuối cùng trong 8 đợt thả 100 người tù cuối sổ. Lúc đợi xe đưa về Sài Gòn bốn chúng tôi tính với nhau: tôi sẽ được đưa về nhà trước vì là người lớn tuổi nhất trong anh em, kế đến là Trần Bá Di, tới Lê Văn Thân. Lê Minh Đảo trẻ tuổi nhất, sẽ về sau chót. Nhưng khi xe đưa chúng tôi về đến Sài Gòn thì thì những người áp giải chúng tôi làm ngược lại! Lê Minh Đảo được đưa về nhà trước nhất, tôi là người về nhà sau cùng.” <br /><br />PV Trẻ: “Vậy, bác đúng là người đi tù trước nhất và về nhà sau cùng. Bác có không được vui về chuyện ấy không?” <br /><br />CTTĐKG: “Từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, sau khi Tổng thống Thiệu và Thủ tướng Khiêm đã rời Sài Gòn thì ngày 28, 29 Tháng Tư, tướng Times bên Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp tôi đưa cả gia đình tôi đi ra nước ngoài. Nhưng tôi quyết định ở lại vì trách nhiệm.” <br /><br />PV Trẻ: “Bác có ân hận về quyết đnh ở lại đó với 17 năm tù và về sau chót?” <br />CTTĐKG: “Không. Tôi đã làm tròn trách nhiệm của một Tướng lãnh với Tổ Quốc, với Quân đội, với đồng bào và đồng đội. Qua 17 năm tù tôi vẫn giữ tác phong, danh dự của Quân Lực VNCH. Những người bắt tôi còn đó, họ có thể không thích tôi nhưng họ không có gì để khinh tôi.” <br /><br />PV Trẻ: “Đối với bên kia, thì đã rõ về tác phong của bác. Nhưng đối với đồng đội, đặc biệt là với các vị Tướng đã bỏ nước ra đi vào những phút chót dầu sôi lửa bỏng, Bác nghĩ gì về họ?” <br /><br />CTTĐKG: “ Tôi quyết định ở lại vì tôi thấy hành động như vậy là đúng. Nhưng không phải vì vậy mà tôi công kích những người ra đi Tháng Tư năm 1975. Bởi vì trường hợp mất Nam Việt Nam thật đặc biệt, không thể qui trách cho những người cầm súng giữ nước. Các đơn vị quân đội vẫn hiên ngang chiến đấu, chúng ta không hề bỏ chạy trước cộng quân. Quân đội phải buông súng vì lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh. Do đó, nếu quí vị Tướng có ở lại trong nước thì trước sau các ông cũng vô tù như tôi. Hơn nữa nhờ có một số chiến hữu thoát được ra hải ngoại nên về mặt chính trị mới có cơ hội tranh đấu cứu vãn những người còn kẹt lại. <br /><br />Về mặt kinh tế, những người đi trước đa số đã thành công trong việc xây dựng được cuộc sống ổn định ở nước ngoài, nhờ đó ta có thể có thể tương trợ lẫn nhau. Bây giờ không nên nói nhiều nữa về chuyện đi hay không đi, đi trước- đi sau, mà mọi người nên, và phải cùng chung lưng xây dựng một lực lượng vững mạnh cả chính trị và kinh tế nơi thế hệ tương lai của người Việt tại hải ngoại.” <br />PV Trẻ: “Cảm ơn bác đã cho nghe về lịch sử và những biến động ở Sài Gòn cũng như miền Nam vào những ngày cuối cùng của nền Cộng Hoà. Trong tương lai, bác có suy tư nào để chia sẻ với những người đời sau?” <br /><br />CTTĐKG: “Những ngày lễ, ngày Tết, đặc biệt là Ngày 30 Tháng Tư hàng năm, đều có những người trẻ tìm đến tôi để hỏi thăm. Tôi cảm ơn nhiều.. Phần các cháu hỏi, thì câu trả lời của tôi còn đó, đến năm sau có thể ta sẽ lại gặp nhau. Các cháu hãy làm đi, làm những gì có thể làm cho quốc gia, dân tộc chúng ta khá hơn, hay hơn.” <br /><br />PV Trẻ: “Cảm ơn lời chỉ dạy của bác. Xin được chào bác và để bác nghỉ. Xin chúc bác được nhiều sức khoẻ để làm chỗ dựa tinh thần cho lớp trẻ dấn thân vào việc xây dựng tương lai chung của chúng ta. Kính chào bác.” <br /><br />Khi ngồi nghe chuyện Cựu Tướng Đỗ Kế Giai sau bữa ăn trưa ở Trung Tâm Sinh Hoạt Người Việt cao niên, những câu hỏi tôi đã chuẩn bị để hỏi ông không có cơ hội được tôi nói ra vì dòng hồi tưởng của vị Tướng Già cứ tuôn chảy theo ký ức và tâm cảm của ông. Hai nữa có những chuyện tôi không muốn hỏi sợ làm ông buồn. <br /><br />Thế rồi bác Đỗ lái xe đưa bác Giai về tư gia. Trongcuộc sống âm thầm nơi viễn xứ, những người lính cũ vẫn sống bên nhau với tình đồng đội ngày nào. Thật đáng kính phục những người Lính Chiến của một Quân Lực oai hùng nay không còn nữa. <br />Tôi trở về toà soạn, ngồi gõ keyboard viết những dòng chữ này để Tưởng Niệm Tháng Tư 2009 gửi đến quí vị độc giả Tạp Chí Trẻ. <br /><br />Người viết Phóng Viên Trẻ.</strong><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzfIcjIL-F_SUQlpqc3mNhJNIyVzPobUlmE4tM-2gmZtBMBmb0FDK9JhsMstUrTgksZ7o1hYUyHmbk8Gx8Gm72r6N70hPMh2-M4sn6QGWKsCpw-_mrIlDincd4vOtZErFUdknU4nu6q0Y/s1600-h/pic18.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 320px; height: 224px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzfIcjIL-F_SUQlpqc3mNhJNIyVzPobUlmE4tM-2gmZtBMBmb0FDK9JhsMstUrTgksZ7o1hYUyHmbk8Gx8Gm72r6N70hPMh2-M4sn6QGWKsCpw-_mrIlDincd4vOtZErFUdknU4nu6q0Y/s400/pic18.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5343955708418375266" /></a>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-83721078116575197162009-06-01T10:09:00.000-07:002009-06-05T13:58:12.930-07:00Chuẩn Tướng TRƯƠNG QUANG ÂN<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEicNsvEgeB9xNCijcjW8Y3iGGoSH8YkKkz4PpumdlTgSHgxhvL_hQEk0L5qMcVX9-AS4zXUJugXbzUmmbbHZ2WFRVwadLWt9t2l_OtrDo6oOLfZW2ev6eaRixPn8wNLL9kVRQwOr3103SU/s1600-h/chuantuongan.bmp"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 346px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEicNsvEgeB9xNCijcjW8Y3iGGoSH8YkKkz4PpumdlTgSHgxhvL_hQEk0L5qMcVX9-AS4zXUJugXbzUmmbbHZ2WFRVwadLWt9t2l_OtrDo6oOLfZW2ev6eaRixPn8wNLL9kVRQwOr3103SU/s400/chuantuongan.bmp" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5342408428413799474" /></a><br /><br /><strong>Chuẩn Tướng TRƯƠNG QUANG ÂN<br /><br />Nguồn tin vừa được loan đi đã làm sửng sốt toàn thể chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là các chiến sĩ thuộc Khu 23 Chiến Thuật. Ðó là tin Chuẩn Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật tử nạn phi cơ cùng phu nhân và phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật sáng ngày chủ nhật 8-9-1968 vừa qua trên đường tới thăm viếng và tưởng thưởng các chiến sĩ đang hành quân tại Ðức Lập.<br /><br /> Nguồn tin trên quả đã gây xúc động trong toàn thể chiến sĩ chúng ta, vì không nhiều thì ít, chúng ta cũng đã được biết về vị Tướng Lãnh vốn nổi tiếng về khả năng và kỷ luật gương mẫu. Chuẩn Tướng Trương Quang Ân siêng năng tận tụy lúc nào cũng một lòng lo tròn nhiệm vụ. Trong thời gian vừa qua, Chuẩn Tướng làm việc không có ngày nghỉ; mặc dầu công việc rất bề bộn, cũng đã dành ngày chủ nhật để cùng phu nhân và phái đoàn của Khu 23 Chiến Thuật đáp máy bay đến vùng Ðức Lập với mục đích theo dõi cuộc hành quân đang diễn tiến và để tưởng thưởng tại chỗ các chiến sĩ xuất sắc.<br /><br />Bất cứ trận chiến nào tại Khu 23 Chiến Thuật cũng đều có sự hiện diện của Tướng Trương Quang Ân vào lúc sôi động nhất. Ðơn vị nào thuộc Khu 23 Chiến Thuật, hành quân cũng được chính Chuẩn Tướng đích thân tới <br /><br /> tưởng thưởng và uỷ lạo.<br /><br />Chúng ta hẳn không quên Tướng Trương Quang Ân là một quân nhân hiện dịch, chọn binh nghiệp làm lẽ sống, tốt nghiệp Thủ khoa Khóa 7 Ðà Lạt, về Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, lập những công trạng hiển hách đầu tiên trong đời binh nghiệp với trận đánh lừng lẫy tại bản Hu siu (Lào). Năm 1957, làm Trưởng Phòng Hành Quân của Lữ Ðoàn Nhảy Dù, kế đó là các chức vụ Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù, Tham Mưu Trưởng Lữ Ðoàn, rồi Chiến Ðoàn Trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù. Sau một thời gian làm Tỉnh Trưởng Gia Ðịnh, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 25 Bộ Binh và cuối cùng, năm 1967 làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật.<br /><br />Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Khu 23 Chiến Thuật từ năm 1967, đặc biệt từ Tết Mậu Thân, đã anh dũng đánh tan tất cả nỗ lực tấn công của Cộng quân nhằm chiếm đóng thị trấn của miền Cao nguyên này. Cũng trong suốt thời gian Chuẩn Tướng Trương Quang Ân làm Tư Lệnh, các chiến sĩ Sư Ðoàn 23 Bộ Binh đã tiếp tục tạo lập chiến thắng dồn dập, nêu cao danh dự đơn vị cũng như danh dự của toàn thể Quân Ðội. Tướng Trương Quang Ân được vinh thăng cấp bậc cuối cùng hiện tại vào ngày Quân Lực 19-6-1968 vừa qua, cũng đã được tưởng thưởng 30 huy chương đủ loại kể cả Bảo Quốc Huân Chương.<br /><br />Suốt trong đời binh nghiệp, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân lúc nào cũng nêu gương sáng về kỷ luật, chỉ biết sống cho Quân Ðội, chết cho Quân Ðội. Chuẩn Tướng cũng là một sĩ quan dũng cảm có tài chỉ huy, thương yêu thuộc cấp và đặc biệt là một trong những chiến sĩ Dù giỏi nhất về môn nhảy tự động chính xác.<br /><br /> <a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPGw2BN8KXBL2nJ6RuXpZTz3eK2PKgttteFSShmNBZQx_qhFYWFjbz0dqxZjHBsO1EG6D1JaXzXGZs0AGIF9fXO3nbigd_ai2Pycdwol4hLGXnQMYwfxqx00cyVYpXVLhyphenhyphenXWy3bE5p-js/s1600-h/ChuanTuongAnvavo.bmp"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 263px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiPGw2BN8KXBL2nJ6RuXpZTz3eK2PKgttteFSShmNBZQx_qhFYWFjbz0dqxZjHBsO1EG6D1JaXzXGZs0AGIF9fXO3nbigd_ai2Pycdwol4hLGXnQMYwfxqx00cyVYpXVLhyphenhyphenXWy3bE5p-js/s400/ChuanTuongAnvavo.bmp" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5342408800320068962" /></a><br /> <br />Trong tai nạn đau buồn nầy, phu nhân của Chuẩn Tướng cũng tử nạn cùng chồng. Phu nhân nhũ danh là Dương Thị Kim Thanh, nữ Chuẩn uý phục vụ tại Tổng Y Viện Công Hòa và là một trong 7 Nữ Phụ tá đầu tiên trong Quân Lực tốt nghiệp bằng Nhảy Dù. Cả gia đình đều phục vụ Quân Ðội. Cả Chuẩn Tướng và Phu Nhân trong suốt đời binh nghiệp đã nêu gương phục vụ cho tất cả thuộc cấp.<br /><br />Người chiến sĩ dũng cảm và tận tuỵ, con chim đầu đàn của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và Khu 23 Chiến Thuật không còn nữa, nhưng tinh thần kỷ luật tuyệt đối và thiện chí phục vụ cao độ của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân sẽ còn là tấm gương sáng mãi mãi cho tất cả chiến sĩ chúng ta. Gắn liền cuộc đời vào binh nghiệp, tuyệt đối tôn trọng kỷ luật, phục vụ Quân Ðội không mỏi mệt, lúc nào cũng nghĩ tới đồng đội và thương yêu thuộc cấp. Ðó là tính chất của một chiến sĩ lý tưởng và là những yếu tố cao quý tạo thành cuộc đời của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân vậy.</strong>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-11870712595768919152009-05-28T22:07:00.000-07:002009-05-29T23:46:54.116-07:00Đi Vào Lòng Địch<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhM_Uz055t9ye6pOWMg2qDFjj-_wy6Khik40gcOm_oXo8qPK0PqNHSo1-QTHZLDOQCb6lDrWB19eGp-Ni0wGH-IYrAVZSXmdqGGyt5zikNzNFghP8TSvccv2NSq8WMAC8EZDaG1FgmFoLI/s1600-h/rh469.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 297px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhM_Uz055t9ye6pOWMg2qDFjj-_wy6Khik40gcOm_oXo8qPK0PqNHSo1-QTHZLDOQCb6lDrWB19eGp-Ni0wGH-IYrAVZSXmdqGGyt5zikNzNFghP8TSvccv2NSq8WMAC8EZDaG1FgmFoLI/s400/rh469.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341499959716349218" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1Uvfxa11oE9movWA7huheO-n-VSQ757qP0e0_O7jmJ-hmemlKLplMK0zKW_AnekV4-pDlkQst_VPXv39zqycWYwLIf5FMIn0Z874WYArHuRyp_cegowlC9RL4-frHh7_xw_Nk9A1RJyQ/s1600-h/genehambeton.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 250px; height: 344px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1Uvfxa11oE9movWA7huheO-n-VSQ757qP0e0_O7jmJ-hmemlKLplMK0zKW_AnekV4-pDlkQst_VPXv39zqycWYwLIf5FMIn0Z874WYArHuRyp_cegowlC9RL4-frHh7_xw_Nk9A1RJyQ/s400/genehambeton.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341113673186195250" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzvaLY9RviKBscvNP9aNxzqXxvnj-RnEQdhU4FOxMrkS8h0ImBz40EJpNBd4IyATXA2TusNX4Ylcm8v0q4aJvRTJFjv8QFhhBCB-DpSFrCYwetWh1BO1tX7Ux1deJ8luXFLwTdSeswpb8/s1600-h/kietandtom.gif"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 349px; height: 244px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzvaLY9RviKBscvNP9aNxzqXxvnj-RnEQdhU4FOxMrkS8h0ImBz40EJpNBd4IyATXA2TusNX4Ylcm8v0q4aJvRTJFjv8QFhhBCB-DpSFrCYwetWh1BO1tX7Ux1deJ8luXFLwTdSeswpb8/s400/kietandtom.gif" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341113620266729314" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKCLNPB1n4ioFryrD_WvBpuRlbCgp8fpyupbFY6GHH69_3cDhD4KkqpoktTCIpaV0NYVirIO5HffkAmcqJW3lhRhvA315N_VeslUcL1sZl7E9VfH8nbAKXv21SG5g_PgFZhnnnBlNKCzk/s1600-h/sealsnearendofwar.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 278px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKCLNPB1n4ioFryrD_WvBpuRlbCgp8fpyupbFY6GHH69_3cDhD4KkqpoktTCIpaV0NYVirIO5HffkAmcqJW3lhRhvA315N_VeslUcL1sZl7E9VfH8nbAKXv21SG5g_PgFZhnnnBlNKCzk/s400/sealsnearendofwar.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341113564490033906" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgb615gM_O6nWpQFqIDPwF5-RVCuvzgj5SX7VaMZGeyNWn59q7oZrVraNPRQQSIWbnZ8E0x30yasqt0CODOcaTA9jDvyhkrhSoVJ3d7933C6wggShWvSDRE825549BcZMQPckw8d2tzy1A/s1600-h/353651158pmsgNj_fs.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 276px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgb615gM_O6nWpQFqIDPwF5-RVCuvzgj5SX7VaMZGeyNWn59q7oZrVraNPRQQSIWbnZ8E0x30yasqt0CODOcaTA9jDvyhkrhSoVJ3d7933C6wggShWvSDRE825549BcZMQPckw8d2tzy1A/s400/353651158pmsgNj_fs.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341109481317306690" /></a><br /><span style="font-weight:bold;">Thế Trân<br /><br />(Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Kiệt và dữ kiện trong các trang web)<br />Lời ngỏ: Cuối năm 2001 người xem TV các chương trình “Suicide Missions” (History Channel), “Navy SEALs: Untold stories” (TLC - The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai? Tình tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không? Mời đọc giả đi ngược thời gian ….<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEha5JVV38yE_lmQon3tsr2KvdRnO9pmqAAgmxGlvsE7QM8SKdzkuEePzqq9wNUwKfFuuA196o5i1htKxU7R5WSlJnY5r59T61xUMvi8jg98qpmfMAlEo1NbMql_lZX2ltrETUwxQxszfrc/s1600-h/Bat21_map.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 286px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEha5JVV38yE_lmQon3tsr2KvdRnO9pmqAAgmxGlvsE7QM8SKdzkuEePzqq9wNUwKfFuuA196o5i1htKxU7R5WSlJnY5r59T61xUMvi8jg98qpmfMAlEo1NbMql_lZX2ltrETUwxQxszfrc/s400/Bat21_map.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341501270488174562" /></a><br /> Cách đây gần 30 năm về trước, vào mùa hè năm 72 được biệt danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Cộng sản Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc. 30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch ….<br />Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất. Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “tìm kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến.<br /> Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.<br />Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN. Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972. Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần. Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về. Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ. Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton. Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối. Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjEow5Ekmjdy3clK3ayVZ35pSCkWx6G8u9JoIA503mv4rLrj_8m3y82M4yLj_3DUBfdgd9DY7KLJpLOg_3fMFhhz-i5M1c2NtxSDG_6HmH1VB5N9ei1a_GxA8bRVVsJplfsGnf5qP_J5gQ/s1600-h/Bat21_rescue5.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 257px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjEow5Ekmjdy3clK3ayVZ35pSCkWx6G8u9JoIA503mv4rLrj_8m3y82M4yLj_3DUBfdgd9DY7KLJpLOg_3fMFhhz-i5M1c2NtxSDG_6HmH1VB5N9ei1a_GxA8bRVVsJplfsGnf5qP_J5gQ/s400/Bat21_rescue5.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341501712293993746" /></a><br /> Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch. Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.<br /> Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng. Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt. Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton. Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người.<br /> Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn…. Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGYM52fHygy_36jEhYDgWBYoEJ9l8kKT_ilswVSLDegnd1EwePWcGG6vOfQeggLM48it7BtXdf8fO4wZ9E3CA3BZwONSbP2inod1CZgJ7e45aNNj5JPeNwrpWQwc_wvzCg2iSzrD9xsMg/s1600-h/Bat21_map2.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 267px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGYM52fHygy_36jEhYDgWBYoEJ9l8kKT_ilswVSLDegnd1EwePWcGG6vOfQeggLM48it7BtXdf8fO4wZ9E3CA3BZwONSbP2inod1CZgJ7e45aNNj5JPeNwrpWQwc_wvzCg2iSzrD9xsMg/s400/Bat21_map2.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341502203695826914" /></a><br /><br /> Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác. Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.<br />Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này? Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt. Đại Úy Thomas Norris - (hình trái) - US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. <br /> Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông. Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo US Navy SEALs.<br />Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó. Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-Kv6OUiD8g-0Wg4SSLvfoeImxOkd1lm3XKbNBeMwi_jH4XmvOqYSpvgCFZPfSN9UQiXhBF_aqivl9B_n2ZMYDhLNFjHqDccQLS-xXfcHIt1XA01PCmBITgC3rymhn4qZLOb2LDvUxuTc/s1600-h/Bat21_rescue1.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 319px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj-Kv6OUiD8g-0Wg4SSLvfoeImxOkd1lm3XKbNBeMwi_jH4XmvOqYSpvgCFZPfSN9UQiXhBF_aqivl9B_n2ZMYDhLNFjHqDccQLS-xXfcHIt1XA01PCmBITgC3rymhn4qZLOb2LDvUxuTc/s400/Bat21_rescue1.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341502468549680914" /></a><br /><br /> Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông. Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiễu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt.<br /> Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.<br />Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích thấy một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiễu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán trông thấy ông ta đang ẩn núp ở ven sông. Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch.<br /> Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch. Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEghehCYEahjMxiqgkCfxM170D2Mcanq0pFcj5kUnpixg55ZdIQpGOEbQJvTQ-2rIghhyphenhyphenaHbgfPaRSjxVrpXdGp9lJ7yo_CNWyT_Ac26Z99F8OxXgzELF-I1D3y9MAqsh1HQrtciZ0P9AiI/s1600-h/Bat21_rescue2.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 322px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEghehCYEahjMxiqgkCfxM170D2Mcanq0pFcj5kUnpixg55ZdIQpGOEbQJvTQ-2rIghhyphenhyphenaHbgfPaRSjxVrpXdGp9lJ7yo_CNWyT_Ac26Z99F8OxXgzELF-I1D3y9MAqsh1HQrtciZ0P9AiI/s400/Bat21_rescue2.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341502678384183986" /></a><br /><br /> Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6g3FGy9VT1HV5TL974aguHFReFLjbjravBPk70gtPl1bfjpVTg9CG9UwJMNH2vZ53r7-0WvRyOHyUcY4baGjZSGFb7upXflCRqNvaFNHoD4TTegrFHdwB1kH-NfWN3JYEh5RGxoxMEoc/s1600-h/Bat21_rescue9.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 298px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6g3FGy9VT1HV5TL974aguHFReFLjbjravBPk70gtPl1bfjpVTg9CG9UwJMNH2vZ53r7-0WvRyOHyUcY4baGjZSGFb7upXflCRqNvaFNHoD4TTegrFHdwB1kH-NfWN3JYEh5RGxoxMEoc/s400/Bat21_rescue9.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341503361243731618" /></a><br /><br />Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng địch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui.<br /> Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết trong rừng già.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjk7a5VLcoTE0dQ3e3pojoZo-K6E3_ekrZpq18bid_ZnG0Sur-9a0DnLXJT_i0wFCdqYa1pOxF1aOHeKuoAHg9DhYvvQrBAZiMqvbHiRHwC3Mor-SfOfXXUNsM_qPqJA0ACEsZ5YGpkA6g/s1600-h/Bat21_rescue3.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 278px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjk7a5VLcoTE0dQ3e3pojoZo-K6E3_ekrZpq18bid_ZnG0Sur-9a0DnLXJT_i0wFCdqYa1pOxF1aOHeKuoAHg9DhYvvQrBAZiMqvbHiRHwC3Mor-SfOfXXUNsM_qPqJA0ACEsZ5YGpkA6g/s400/Bat21_rescue3.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341502923466918210" /></a><br /><br /> Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay thì có lẻ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.<br />Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất tình nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn tình nguyện đi vì yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng vì lòng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu. Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47. Họ quyết định dùng xuồng đi ngược dòng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rõ mồn một tiếng trò chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu. Họ chèo chậm rãi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp dòng sông che chở họ khỏi sự dòm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ. Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiễu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi dòng sông và tìm kiếm Trung Tá Hambleton. Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng tìm ra Trung Tá Hambleton, một thân hình tong teo gục ngã gần bờ sông. Ông ta chỉ còn thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân hình ông ta. Họ bắt đầu cuộc hành trình rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm rãi như mọi khi. Lúc bấy giờ hừng đông đã ló dạng. Bất thình lình, Kiệt nghe tiếng gọi “Ê, lại đây!”. Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiKQKdlIAX0DBuWxQ5Q4YBOuWMWL03tg8WtXVnoqWKxUQ6M8C8E84X1ODd1WMRPp218D3RE1tdl_ho2UGylCot2X3j3LJONMdzlGhFeFQ39_vME-XyNRmJWus1AP4JxowLZD7OGoDZM2oc/s1600-h/Bat21_rescue4.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 371px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiKQKdlIAX0DBuWxQ5Q4YBOuWMWL03tg8WtXVnoqWKxUQ6M8C8E84X1ODd1WMRPp218D3RE1tdl_ho2UGylCot2X3j3LJONMdzlGhFeFQ39_vME-XyNRmJWus1AP4JxowLZD7OGoDZM2oc/s400/Bat21_rescue4.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341503145685712546" /></a><br /><br /> Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều bình tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam. Vừa chèo, Kiệt đã bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại bình thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu. Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm não của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời … <br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjobatsVQlMWsQJYeHx8OYtD6wGBnIftCizTvhavfiFsoUgvf5BPj9baapZ7YPDJuGIUU1VQvHzwH7PGJk2RFJ9tsT9EK0v2tiupxdVRKRVfTYNLEGnXAdTK_AElw09j5s8hR0sFAap3QU/s1600-h/Bat21_rescue11.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 312px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjobatsVQlMWsQJYeHx8OYtD6wGBnIftCizTvhavfiFsoUgvf5BPj9baapZ7YPDJuGIUU1VQvHzwH7PGJk2RFJ9tsT9EK0v2tiupxdVRKRVfTYNLEGnXAdTK_AElw09j5s8hR0sFAap3QU/s400/Bat21_rescue11.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341503930459145762" /></a><br /><br />Tom lập tức báo cáo bằng radio là đã giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong vì họ vẫn còn sâu trong lòng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. Vì thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào. Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đã báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn dòng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt hình ảnh chiếc xuồng mong manh. Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức. Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi dòng an toàn. Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam. Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt dìu Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn … Cuộc giải cứu đã thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay thì những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng mình đi vào trong lòng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.<br />Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện. Vậy mà 2 nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến. Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ.<br /><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhb6FxiTjnrl2cjj8BVLthG5yGBrYx0ORxvq6AbchI22U_9plT81hDMDHvPYefRG5vgtoa1EwBxywm03i8c9JV9M9mfwZFXs3hO6cu3HPnaGEWA3rzF6vL5WdTkctYVOWPTATnQd0ia5ik/s1600-h/Bat21_rescue6.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 288px; height: 355px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhb6FxiTjnrl2cjj8BVLthG5yGBrYx0ORxvq6AbchI22U_9plT81hDMDHvPYefRG5vgtoa1EwBxywm03i8c9JV9M9mfwZFXs3hO6cu3HPnaGEWA3rzF6vL5WdTkctYVOWPTATnQd0ia5ik/s400/Bat21_rescue6.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341503640813560050" /></a><br /><br /> Đại Úy Thomas Norris được trao tặng huân chương “Medal of Honor”. Huân chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đã có hành động dũng cảm phi thường. Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, người Nhái anh dũng của Hải Quân VNCH, được trao tặng huân chương “Navy Cross”. Huy chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh. Kiệt là người chiến sĩ Hải quân VNCH duy nhất nhận huy chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam. Đến nay đã gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đã được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành động dũng cảm, anh hùng này đã được mọi người biết đến.</span><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi8oK5Mx46hmzNeAWgO3zp-g2xDHTF3zLdDrpx-33C5UF7MF-64c0OLf_1cbfkoY9V78ML4wbRFrRXpaDm-Zn8ARUxVD2Y9_FKYTR0sJzI6ZmIJ0bOn_7q9yQQOu3rJlSPUA1LHSSTAKXo/s1600-h/IMG_3603vietnamflag1.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi8oK5Mx46hmzNeAWgO3zp-g2xDHTF3zLdDrpx-33C5UF7MF-64c0OLf_1cbfkoY9V78ML4wbRFrRXpaDm-Zn8ARUxVD2Y9_FKYTR0sJzI6ZmIJ0bOn_7q9yQQOu3rJlSPUA1LHSSTAKXo/s400/IMG_3603vietnamflag1.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341122358877718754" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOhblglqAjvb9w5yQsICRkUJKnxmVP8hdOLAJ2O7FXTe5wauzd2aioJnpBZFWZ3zv9dYVUalgRy7GVMSm5hj9Tke9MFx1zaV97ZFlHPCW-Vw8ZZ6kG6CdMC6JAdzbN6JCEzaECrMNmNUU/s1600-h/IMG_3579.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 300px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjOhblglqAjvb9w5yQsICRkUJKnxmVP8hdOLAJ2O7FXTe5wauzd2aioJnpBZFWZ3zv9dYVUalgRy7GVMSm5hj9Tke9MFx1zaV97ZFlHPCW-Vw8ZZ6kG6CdMC6JAdzbN6JCEzaECrMNmNUU/s400/IMG_3579.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341122293380450562" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhVP2gfx_A-khyphenhyphenY3wkVbo8W1VUvXmsQt7vjJlNSPPBe4tcQdnJG2k3IFwe40IJlq64gqUk8ddS9iilQSw8PT_0DixLXohdqHTIbnB_zH-hO7xvDX_-0j83rscNQglxiiIEaTdp3cgmO5IY/s1600-h/tho0-003norris.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 332px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhVP2gfx_A-khyphenhyphenY3wkVbo8W1VUvXmsQt7vjJlNSPPBe4tcQdnJG2k3IFwe40IJlq64gqUk8ddS9iilQSw8PT_0DixLXohdqHTIbnB_zH-hO7xvDX_-0j83rscNQglxiiIEaTdp3cgmO5IY/s400/tho0-003norris.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5341504771203957570" /></a>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-1501169468932501121.post-51345819409294262092009-05-23T16:58:00.000-07:002009-05-23T17:06:10.370-07:00Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến / Yễm Trợ Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhSUg3GIUPKoREAzH-ULkNKyLuXPRCaYvLtHfrYFNMJUpFg1-K_kJFHdXEHpwbWr7QO2qjj7SL-7XoIXX_Txqc_OydMjKGXr59k0GpUZ63HKnHNCGLS6oQTIqXzWTEv2LjIjFF23cV-csU/s1600-h/img075.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 288px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhSUg3GIUPKoREAzH-ULkNKyLuXPRCaYvLtHfrYFNMJUpFg1-K_kJFHdXEHpwbWr7QO2qjj7SL-7XoIXX_Txqc_OydMjKGXr59k0GpUZ63HKnHNCGLS6oQTIqXzWTEv2LjIjFF23cV-csU/s400/img075.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174814361602914" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiDX2LTwC0mQy4FsBmA1EntzBe5fRNg7O4tDCMJvzL7kNHMhYFffIGxb6aRVXz22gLi3LsUzbIBdjwuxpZsw28O08lNlJmEXvitf2N6i2zqGC0KbXNo-WI4rP_pg8jUvZ0OdtYNqsC9iKw/s1600-h/P2260609.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiDX2LTwC0mQy4FsBmA1EntzBe5fRNg7O4tDCMJvzL7kNHMhYFffIGxb6aRVXz22gLi3LsUzbIBdjwuxpZsw28O08lNlJmEXvitf2N6i2zqGC0KbXNo-WI4rP_pg8jUvZ0OdtYNqsC9iKw/s400/P2260609.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174723621545634" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhiRBvjtRLCf3ZfVeIzrLD_FWIgr4zAY1zBLKseb8eDHjkPraZy-oxZFAx_EmxlFDkwJmMZJYr0AF9aU-0MpwPcdU0AtMfBxhQtLARvHLSSDFeES4oBt1PlRA4gIhhawJ9iwMUZcfS5K4g/s1600-h/P2260611.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhiRBvjtRLCf3ZfVeIzrLD_FWIgr4zAY1zBLKseb8eDHjkPraZy-oxZFAx_EmxlFDkwJmMZJYr0AF9aU-0MpwPcdU0AtMfBxhQtLARvHLSSDFeES4oBt1PlRA4gIhhawJ9iwMUZcfS5K4g/s400/P2260611.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174634134452322" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjHgigkSatR2nL4f-CYX-hNQlDTtmFNgB2JGsmeUYx8Jz6Z4ajeB_SuSMPBMHyZV7iVy5bydX_bRMTQSH_oDE7haudug1_Y2Q-mAPYjt8Bvw2b3Q3fjCI4etW6Q02ULMj8T23X4Er36ZLc/s1600-h/P2260610.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjHgigkSatR2nL4f-CYX-hNQlDTtmFNgB2JGsmeUYx8Jz6Z4ajeB_SuSMPBMHyZV7iVy5bydX_bRMTQSH_oDE7haudug1_Y2Q-mAPYjt8Bvw2b3Q3fjCI4etW6Q02ULMj8T23X4Er36ZLc/s400/P2260610.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174550585517650" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiT4IeAH9gGC8ZbO6Z75w1nGyhMwAqbo-nO8Lw-w_f4E88uNmdxCvUnGF66DsTzb8AZnevwB7rSMRN6IqzdyZ6lG4dycNMd9a3GQpK2l4_XABqj28t69qGhneu-EJce5tnpUwywhyW1N90/s1600-h/P2260608.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiT4IeAH9gGC8ZbO6Z75w1nGyhMwAqbo-nO8Lw-w_f4E88uNmdxCvUnGF66DsTzb8AZnevwB7rSMRN6IqzdyZ6lG4dycNMd9a3GQpK2l4_XABqj28t69qGhneu-EJce5tnpUwywhyW1N90/s400/P2260608.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174462747155986" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixxd0T8A52jzPeEEBfuV_KxltijoyNKXtO-AdcDRhqRRC9pQON8MxBxj8USZ6brgDNBDZoKXxJtVejy4xFRAdBmA2aHMDw99UeHaQ-zoVOmYrubHQrvvT163ac8DFWg5-t6iI11M0ZWXk/s1600-h/img072.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 282px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixxd0T8A52jzPeEEBfuV_KxltijoyNKXtO-AdcDRhqRRC9pQON8MxBxj8USZ6brgDNBDZoKXxJtVejy4xFRAdBmA2aHMDw99UeHaQ-zoVOmYrubHQrvvT163ac8DFWg5-t6iI11M0ZWXk/s400/img072.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174365928494978" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEing50Xn3jNZFMKEOA3J4Bv_csFurDqxsoH1Cv1iWA1M78LHf8BOP5dj3kKGc_RVkBaHu4B4Xwzj9glQytUZomVk-aTX0HyfqViGmbD19xBLIklS15MePRQly6BW-tCVegZDHYiPA22Hik/s1600-h/img015(2).jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 302px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEing50Xn3jNZFMKEOA3J4Bv_csFurDqxsoH1Cv1iWA1M78LHf8BOP5dj3kKGc_RVkBaHu4B4Xwzj9glQytUZomVk-aTX0HyfqViGmbD19xBLIklS15MePRQly6BW-tCVegZDHYiPA22Hik/s400/img015(2).jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174305015595826" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixeylrGf4AlgxtN02ttNXio8jQmcstybtVMp5NpDWKsKDzDaUKwaIsAHuuahWWaKoCiT6BEveFhmIKahgDWS-kr7et1-fuVIDV5NoNj48fv8HaQsv4hM3aC53w0SuMpxuxfWANswAAeVM/s1600-h/img068.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 286px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEixeylrGf4AlgxtN02ttNXio8jQmcstybtVMp5NpDWKsKDzDaUKwaIsAHuuahWWaKoCiT6BEveFhmIKahgDWS-kr7et1-fuVIDV5NoNj48fv8HaQsv4hM3aC53w0SuMpxuxfWANswAAeVM/s400/img068.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174205094324898" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKPzRIe96cC8j1qFZ3hrEvrMsSgJJ-l2-82ZIkzg7x6nTsar8ICsjlOnlEfH2QC9ve6DkdvOfB9K4KaZnV5323l0O56TF7oQzqur5wsTNIt7tQ9rclxjxfFfqUrFUZBxS8pevX2PAH3Bg/s1600-h/img069.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 288px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKPzRIe96cC8j1qFZ3hrEvrMsSgJJ-l2-82ZIkzg7x6nTsar8ICsjlOnlEfH2QC9ve6DkdvOfB9K4KaZnV5323l0O56TF7oQzqur5wsTNIt7tQ9rclxjxfFfqUrFUZBxS8pevX2PAH3Bg/s400/img069.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174092099069554" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaj-eIDeDUMOuvXDtmUPt3M76sw2PzRhjxSmPvTX0qlOlL0-YfcfdSwXcHPbughXX1y_fB63XCTkTWccR0ImRRr3ghYZlrzLEG4U4usjJkooqGGQd4NbCotXeXGncE1wV3vsXnkOf_8nY/s1600-h/img070.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 214px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaj-eIDeDUMOuvXDtmUPt3M76sw2PzRhjxSmPvTX0qlOlL0-YfcfdSwXcHPbughXX1y_fB63XCTkTWccR0ImRRr3ghYZlrzLEG4U4usjJkooqGGQd4NbCotXeXGncE1wV3vsXnkOf_8nY/s400/img070.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339174010506002914" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhgVBj6LCgJUiwMhPXqVDb1LHqEAeBVMPQ-vTQYOj8UBfegLiu6cmTWqflCCjY7NfA_vEkOelhCToYj1MO6orCETx3sZiNMandZE9nRyH6mB_d3Pu6jTlV7J5uu7ThLOJyPVKKBqljoavY/s1600-h/img071.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 249px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhgVBj6LCgJUiwMhPXqVDb1LHqEAeBVMPQ-vTQYOj8UBfegLiu6cmTWqflCCjY7NfA_vEkOelhCToYj1MO6orCETx3sZiNMandZE9nRyH6mB_d3Pu6jTlV7J5uu7ThLOJyPVKKBqljoavY/s400/img071.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339173860005596386" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3rlhVF7jxIeClqNe54SfRDR9ox4NQKC_UT-7lhHeEGHmu_5rtAO0yPqo8O0cf4tCYXQJuERmWHhxv4ErT6dI3KJJwXW-PZ8toFkHQI4amF0HfbDhyDqXuqP0l662p4bJareQ3EFnTB0M/s1600-h/img073.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 232px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3rlhVF7jxIeClqNe54SfRDR9ox4NQKC_UT-7lhHeEGHmu_5rtAO0yPqo8O0cf4tCYXQJuERmWHhxv4ErT6dI3KJJwXW-PZ8toFkHQI4amF0HfbDhyDqXuqP0l662p4bJareQ3EFnTB0M/s400/img073.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339173778541052034" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgE1l8GS5m9DXOTgSAmw_97el7sG-cJS5XSXt3KimGritj6Rx5KGiGf8z2paLI-IWfrC6X6GuE-iMxDYRGXrn63bQsAsS09P-HG8bJeoaorsfs4iD3MGRPPmFBvj3LpD9mJdpVgeFMy9U0/s1600-h/img074.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 400px; height: 298px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgE1l8GS5m9DXOTgSAmw_97el7sG-cJS5XSXt3KimGritj6Rx5KGiGf8z2paLI-IWfrC6X6GuE-iMxDYRGXrn63bQsAsS09P-HG8bJeoaorsfs4iD3MGRPPmFBvj3LpD9mJdpVgeFMy9U0/s400/img074.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339173601576500482" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjZqogVsNUzZ1XuiAF6M0ePKbeBN43Lzb0NfMv75DbsOQukJL8uqQtJJdcUGPnl_roZzzHmjSgnfdVzuH2bHvFo3z_wAwc-tvBjXiP1PZgnn9s8VoVp8y68vfOqBkzar6MLB3aCPCRYP88/s1600-h/img076.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 302px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjZqogVsNUzZ1XuiAF6M0ePKbeBN43Lzb0NfMv75DbsOQukJL8uqQtJJdcUGPnl_roZzzHmjSgnfdVzuH2bHvFo3z_wAwc-tvBjXiP1PZgnn9s8VoVp8y68vfOqBkzar6MLB3aCPCRYP88/s400/img076.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339173473089508402" /></a><br /><a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfR8W2wLU5Bl0F7hPJ09J9Pothz6agdIo5IKMmTUAb94IMSoKvIUFoYJjGOVvuXfZDPBNMwBPN8Lp3eNcRvyLCz0stVjrBfn1PfO12yc7qYOsnU_2fmxqyQWTxpLS89eQnE_72Oej4j8k/s1600-h/img014(2).jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 302px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfR8W2wLU5Bl0F7hPJ09J9Pothz6agdIo5IKMmTUAb94IMSoKvIUFoYJjGOVvuXfZDPBNMwBPN8Lp3eNcRvyLCz0stVjrBfn1PfO12yc7qYOsnU_2fmxqyQWTxpLS89eQnE_72Oej4j8k/s400/img014(2).jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5339173199718107458" /></a>SQTB K10B/72 THSQ-QLVNCHhttp://www.blogger.com/profile/15469246837471332452noreply@blogger.com0