KHE SANH (1967- 1968)
Viết nhớ các chiến sĩ Tiễu Ðoàn 21+ 37 BÐQ/VNCH Ðã Tham Chiến Tại Khe Sanh.
Trên tờ Washington Star ngày 9-6-1968 có đăng một bài bình luận như sau ‘ Chắc chắn trận chiến tại Khe Sanh sẽ là một đề tài lôi cuốn nhiều cuộc tranh luận kéo dài. Tuy nhiên dù ai có muốn viết gì chăng nữa thì cũng phải xác nhận rằng, chính nó mới là một yếu tố quan trọng quyết định rút bỏ VN sau này. Ngoài ra Khe Sanh còn nói lên được tấm gương dũng cãm phi thường của người chiến binh Mỹ và đồng minh Nam VN tham chiến. Nên cuối cùng sớm muộn gì người dân Hoa Kỳ cũng nhận ra chiến thắng đó khi họ đã chạm với bộ mặt thật của CSVN ‘.
Và bốn mươi mốt năm sau, ngày 20-1-2009 tại Hoa Thịnh Ðốn, trong buổi lễ nhậm chức tân tổng thống Mỹ Barack Hussein Obama, qua bài diễn văn có nhắc tới sự hy sinh dũng cảm của những người lính Mỹ tại chiến trường Khe Sanh trong tỉnh Quảng Trị thuộc Vùng I Chiến Thuật của VNCH, khi so sánh địa danh này với các trận đánh lừng danh trong quân sử thế giới như Concord, Gettyburg và Normandy..
Năm 1984 nhân dịp Lê Duẩn lúc đó đang là tổng bí thư đảng VC có ghé trụ sở hội nhà văn quốc doanh gần Hồ Tây, được Xuân Thiều (tạp chí văn nghệ quân đội) và Bùi Bình Thi (văn học) chất vấn về sự thất bại của VC trong trận Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968. Cả hai đã được Duẩn trả lời như sau ‘ Trận Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968 là những chiến thắng to lớn, có ý nghĩa buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Hy sinh bao nhiêu cũng là xứng đáng là cần thiết. Không có những chiến thắng này thì không thể có toàn thắng 30-4-1975.
Trong cuộc phỏng vấn của nử ký gia O. Fallaci với Võ Nguyên Giáp được J.Shepley chuyển ngữ và đăng trong Inteview with History với đại ý của câu hỏi, là có phải Giáp đã tạo ra một Diện Biên Phủ thứ 2 tại Khe Sanh để nhốt quân Mỹ hay không ? và Giáp đã trả lời là chẳng bao giờ xãy ra điều này, vì Khe Sanh lúc đó chỉ quan trọng đối với mặt mũi của nước Mỹ mà thôi. Leo thang chiến tranh tại Khe Sanh để gây thêm nổi chết chóc của cả hai phía, mới thật sự thu hút dư luận Mỹ. Ðó mới là chiến thắng sau cùng.
Thật sự đến bây giờ qua hàng ngàn tài liệu của nhiều phía được giải mật có liên quan tới trận Khe Sanh (1967-1968) nhưng cũng chưa có ai dám xác quyết về ý đồ của Hà Nội dùng trận đó với âm mưu ‘ đánh lạc hướng quân đội Mỹ để mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 vào lảnh thổ VNCH ‘ hay lấy việc nướng quân trước bom đạn Mỹ tại Khe Sanh để làm nản lòng người Mỹ trước sự phụ họa của đám phản chiến. Ðồng thời Hà Nội gây áp lực với Tàu Ðỏ viện trợ súng đạn như lời thố lộ của Duẩn nói mình đã mặc cả với Mao là sự hy sinh nhiều hay ít của VC đều tùy thuộc vào nguồn quân viện của Trung Cộng nhưng nhất định là phải thắng Mỹ dù có hy sinh thêm 2 hoặc 3 triệu mạng người Việt.
Trong cuốn ‘ Chiến dịch đường 9 , Khe Sanh chung một bóng cờ ‘ xuất bản tại Hà Nội năm 1993, VC có khoe thành tích chiến thắng tại Khe Sanh với 17.000 tử thương trong đó có 13.000 lính Mỹ và 4000 VNCH, 400 máy bay các loại bị bắn hạ, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Về phía Mỹ cho biết có 205 tử trận, bị thương nặng nhẹ khoảng 1500 người. Riêng Tiểu Ðoàn 21 và 37 Biệt Ðộng Quân/VNCH có 34 tử trận, VC bỏ xác tại chỗ hơn 2000 ngưới. Nói chung qua 77 ngày tử chiến tại mặt trận Khe Sanh, trong cũng như ngoài căn cứ kể luôn tai làng Vei, tính chung Mỹ và VNCH tử thương khoảng 650 người, bị thương nặng nhẹ 2500 người. Về phía VC thương vong từ 12000 ố 15000 người.
Cuối cùng Khe Sanh đã đứng vững và được giải tỏa trước vòng vây từ 15000 ố 20.000 quân Bắc Việt nhưng rồi cũng phải phá bỏ căn cứ này vào cuối tháng 6-1968 vì áp lực của phong trào phản chiến đang tàn phá nước Mỹ vì chiến tranh VN. Hởi ôi cái giá máu mà người lính Mỹ và VNCH đã đổ tại Khe Sanh suốt mấy chục ngày tắm trong bom đạn của kẻ thù, rốt cục được đem ra đánh đổi để làm xoa dịu vừa lòng đám loạn tặc phản chiến, sau khi tướng Abrams thay thế tướng West làm tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và Ðồng Minh tại VN. Từ đó cho tới khi có cuộc hành quân Hạ Lào 719, Khe Sanh và hành lang biên giới Lào Việt được khoán trắng cho Không Quân Chiến Thuật và Chiến Lược Hoa Kỳ ngày đêm dội hàng ngàn tấn bom xuống một vùng đất chết vì số lượng thuốc nổ đã sử dụng tại đây nhiều gấp năm lần quả bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ chế được, đã thả xuống thành phố Trường Kỳ (Nagasaky) của Nhật trong những ngày cuối của Thế chiến II.
1- KHE SANH : ÐIỆN BIÊN PHỦ THỨ 2 TRONG CHIẾN TRANH VN ?
Từ đầu năm 1966 qua sự chấp thuận của đại sứ Mỹ tại Lào là William Sullivan nên đoàn nghiên cứu quan sát (SOG) đã có thể sử dụng trực thăng để thả hay bốc các toán viễn thám hoạt động dọc theo biên giới Lào-Việt với quân số trên 20 toán và vài đại đội xung kích thuộc các sắc tộc thiểu số tại cao nguyên Trung Phần.
Thời gian này đơn vị SOG đã được trang bị súng tiểu liên nòng ngắn báng xếp CAR-15, trong khi QLVNCH lúc đó chưa được cấp phát súng M-16. Mùa hè 1966, SOG thêm nhiệm vụ mới là kiểm chứng các trận dội bom (Bomb Damage Assessment) do B-52 vừa mới thực hiện. Nhờ vậy SOG cũng như các phi vụ không ảnh đã nắm được sự hoạt động của cộng sản Bắc Việt đang hoạt động trên đường mòn HCM.
Cũng trong năm 1966 SOG đã mở chiến dịch Shining Brass qua 48 lần xâm nhập vào các căn cứ CSVN tại vùng phi quân sự, đường số 9 tới Tchepone trên đất Lào và căn cứ Khe Sanh. Nhờ đó SOG mới khám phá được địa danh ‘ Khe Núi Xe Ðạp ‘ là một thung lũng hẹp nơi phát xuât của đoàn xe đạp thồ đủ mọi thứ kể cả súng đạn từ Bắc xuôi Nam với trọng tải mỗi chiếc trên 200 ký do dân công phụ trách.
Tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt ở Khe Sanh, các toán viễn thám thuộc SOG được vận chuyển bởi phi đoàn 219 thuộc KQ/VNCH do hai phi công VN tài ba mang biệt danh là Cowboy và Mustachio nhưng sau đó Mustachio đã đền nợ nước trong một phi vụ rãi toán viễn thám Nevada bị bắn hạ tại Khâm Ðức (Kontum) .
Mùa thu năm 1966 Trung Tướng Lewis W Walt tư lệnh Ðệ Tam Thủy Bộ qua cuộc hành quân Hastings, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã đầy lui quân Bắc Việt về bên kia vỹ tuyến và lập hai căn cứ chiến lược Cồn Thiên và Rockpile. Giai đoạn này các toán viễn thám được thả sâu vào lảnh thổ Lào để nghe lén hoạt động của quân Bắc Việt qua các đường dây điện thoại, nhờ vậy mới phát hiện VC đang chuẩn bị tấn công vào hai tỉnh cực Bắc của VNCH.
Ngày 28-6-1966 nhiều toán viễn thám lần lượt bị tiêu diệt khi nhảy vào các vị trí gần Khe Sanh. Cuối cùng toán viễn thám Colorado cũng đạt được kết quả khám phá các căn cứ của quân CS Bắc Việt bao quanh vùng này nhờ gắn được máy nghe lén các cuộc điện đàm của địch.
Từ những ngày đầu của thâp niên 60 thời đệ nhất cộng hòa Nam VN, các cố vấn Hoa Kỳ đã có kế hoạch trùng tu và xây dựng các căn cứ phòng thủ ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội Bắc Việt vào lảnh thổ VNCH mà Khe Sanh là một vị trí trọng yếu nhất. Ðây là một căn cứ yểm trợ hỏa lực cho Ðệ Tam Thủy Bộ Mỹ, nằm gần một sân bay cũ của Pháp. Khe Sanh còn là hậu cứ trực tiếp yểm trợ cho các đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu thuộc Binh Chủng Lực Lượng Ðặc Biệt VN do Mỹ yểm trợ, huấn luyện và chỉ huy. Cuối năm 1966 căn cứ chiến lược Làng Vei nằm sát biên giới Lào Việt về hướng cực tây tỉnh Quảng Trị được xây dựng hoàn tất, nên Lực Lượng Ðặc Biệt đã di chuyển về đó và bàn giao Khe Sanh cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Cũng từ đó cho tới khi bị phá bỏ vào tháng 6-1968, Khe Sanh được trùng tu, xây dựng và mở rộng mà đặc biệt nhất là công trình tái tạo phi trường dã chiến Pháp thành một sân bay chiến lược tối tân dài trên 5 km, có đầy đũ phương tiện yểm trợ tiếp vận cho đơn vị đang phòng thủ. Ðể không bị cô lập như căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp tại Lai Châu truớc năm 1954, Hoa Kỳ đã mở nhiều cuộc hành quân kiểm soát, phát quang toàn vùng bao quanh căn cứ. Nhiều cuộc đụng độ với quân Bắc Việt tại Ðồi 861 nơi có rất nhiều hầm hố giao thông hào kiên cố của giặc, chứng tỏ chúng đang chuẩn bị tấn chiếm Khe Sanh.
Ðể ứng phó kịp thời trước âm mưu của cộng sản Bắc Việt, nên nhiều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ thuộc Sư Ðoàn 3 Thủy Bộ thay phiên nhau hành quân để giải tỏa áp lực của cộng sản tại các ngọn đồi 861, 881.. Nhờ vậy mới phát hiện thêm quyết tâm của Hà Nội là phải tiêu diệt căn cứ Khe Sanh vì nó là vết dao trí mạng đâm vào yết hầu con đường xâm nhập HCM. Ðó là lý do Bắc Việt đã tập trung một lực lượng chính quy đông đảo bao quanh căn cứ này gồm có các sư đoàn 325, 304, 324 và 320 được trang bị toàn vũ khí tối tân của Liên Xô, Tàu, Ðông Ðức, Ðông Âu như đại pháo nòng dài, súng phóng hỏa tiển và lực lượng thiết giáp hùng hậu..
Ngược giòng Việt Sử ta biết Khe Sanh lúc đầu chỉ là một làng nhỏ, được thực dân Pháp khai thác lập các đồn điền trồng cà phê qua chủ nhân đầu tiên là Eugène Poilane vào năm 1926, mở đường cho nhiều người Pháp khác tới đây làm ăn vì đất đai vùng này rất tốt. Năm 1954 Việt Minh tấn công và chiếm Khe Sanh, chi phối bộ tộc Bru có nguồn gốc Môn-Khmer chừng 50.000 người sống trong vùng từ Quảng Bình, Lao Bảo, Lào vào tới Khe Sanh. Từ tháng 3-1964 linh mục Ponchet thuộc dòng Father of Foreign Mission (Pháp) tới giảng và truyền đạo tại đây nhưng ông đã bị cộng sản sát hại tại Huế trong trận Tết Mậu Thân 1968.
Căn cứ Khe Sanh nằm cách biên giới Lào Việt chừng 14 km về hướng cực tây quận Hương Hóa tỉnh Quảng Trị (VNCH), tọa lạc trên một vị trí cao thuộc ngọn Ðông Tre hùng dũng nhất trong vùng có phụ lưu của sông Thạch Hản là Rao-Quan chảy qua. Vùng này chẳng khác nào một lòng chảo được bao bọc bởi đồi 881hướng bắc, 861, 558 và 881phía nam kiểm soát các trục lộ quan trọng tới căn cứ và sân bay Khe Sanh. Tất cả các ngọn đồi trên mọc đầy cây cối và tre nứa. Ðây là nơi tranh giành đẵm máu giữa quân Mỹ và Bắc Việt gần như suốt thời gian căn cứ bị bao vây. Có khoảng 6000 TQLC Hoa Kỳ trấn đóng tại đây được yểm tợ bởi các đơn vị pháo binh từ hướng tây bắc. Doanh trại của LLÐB Hoa Kỳ nằm về mạn tây nam Làng Vei trên QL9 kế trại tù nổi tiếng Lao Bảo sát biên giới Lào. Tóm lại nhiệm vụ của căn cứ Khe Sanh được coi như một bàn đạp để bộ binh và pháo binh Hoa Kỳ đánh phá ngăn chận trục tiến quân của cộng sản Bắc Việt trên đường mòn HCM. Ngoài ra còn là một cứ điểm quân sự chiến lược của VC trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Quảng Trị và Huế-Thừa Thiên.
Trước tình thế nguy ngập trên nên Tướng Westmoreland tư lệnh lực lượng Ðồng Minh và Hoa Kỳ đang tham chiến tại VN, đã quyết định phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá dù biết ưu thế đang thuộc về Bắc quân. Hơn nữa địa thế của căn cứ này vô cùng bất lợi về phương diện phòng thủ, cũng chẳng khác Ðiện Biên Phủ là mấy vì nằm lọt thỏm giữa một thung lũng bao quanh là các ngọn đồi cao gần như che hết tầm quan sát từ bên trong. Ngoài ra cộng sản Bắc Việt còn đào được hai hệ thống giao thông hào ở phía bắc khu phi quân sự và bên kia biên giới Lào, thiết lập dàn điạ pháo mà khoảng cách chỉ có 14 km ,có thể tấn công căn cứ ngày đêm.
Những tháng đầu năm 1967 quân số thuờng xuyên trấn giữ căn cứ chừng một đại đội thuộc Trung đoàn 9 TQLC thay phiên hoán đổi. Bên cạnh còn có một pháo đội cơ hửu của Tiểu đoàn 2/12 với 2 khẩu đại bác 155 ly và hai súng cối 4,2 yểm trợ. Nhưng sau khi một đơn vị TQLC Hoa Kỳ trong lúc tuần tiểu ngoài căn cứ chừng 1 km đã đụng độ nặng với quân Bắc Việt, đồng lúc trong đồn cũng bị pháo kích liên tục. Do trên Khe Sanh được tăng cường thêm Ðại Ðội E thuộc TD2/9 TQLC và đơn vị này đã chạm địch ngày 15-3-1967 tại đồi 861 khiến nhiều binh sĩ bị thương vong.
Tuy nhiên tới ngày 24/4/1967 mới chính thức mở màn các trận chiến giữa hai bên trong giai đoạn 1, để tranh dành các ngọn đồi chiến lược quanh căn cứ. Cũng từ đó các đơn vị TQLC được tăng viện tới Khe Sanh gồm các tiểu đoàn 2 và 3/3 cùng với pháo đội B thuộc TD1/12 PB. Nhờ các cuộc oanh kích dữ dội của B-52 nên các đơn vị TQLC Hoa Kỳ đã làm chủ hoàn toàn các ngọn đồi 861, 881. Ngày 3 tháng 5, lần đầu tiên CS Bắc Việt tấn công căn cứ LLDB tai Làng Vei nhưng chỉ gây tổn thất nhỏ cho quân trú phòng.
Ðể mở đầu cho cuộc tấn công vào Khe Sanh, quân Bắc Việt đã gây áp lực mạnh tại căn cứ Cồn Thiên sát khu phi quân sự vào những tháng cuối năm 1967 để phân tán các đơn vị TQLC tại Khe Sanh. Một tuần trước khi xãy ra trận chiến thật sự, CS đã tấn chiếm đồn biên giới Ban Houli Sane do 2000 quân Hoàng gia Lào trấn giữ. Tình hình căng thẳng thêm nên đã có 4 tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ (gồm 3 TD của Trung đoàn 26 và TD 1/13) hiện diện tại Khe Sanh từ đầu tháng 1-1968. Nhiều đơn vị pháo binh và thiết giáp gồm chiến xa M-48 kể cả thiết vận xa M-113 đã có mặt tại đây vào giữa tháng 1-68 cộng với sự kiên cố của các vòng phòng thủ có đặt mìn dầy đặc từ trong ra ngoài, sẳn sàng đón nhận sự tấn công của địch bất cứ lúc nào.
Ðặc biệt trong căn cứ còn được thiết kế một hệ thống giao thông hào chạy vòng doanh trại, vừa giúp quân phòng trú di chuyển chiến đấu trong lửa đạn và nó cũng là sinh lộ khi đồn bị thất thủ hay tràn ngập. Ðồng lúc các tiền đồn trên những ngọn đồi chiến lược được tăng cường thêm kiến cố, khiến cho quân Bắc Việt không dám tới gần Khe Sanh vì sợ bị phát hiện.
+ Ngày 21-1-1968 Mở Màn Cuộc Tổng Tấn Công Khe Sanh :
Ðây là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Bắc Việt đã tung vào chiến trường một lực lượng hơn 20.000 của sư đoàn 304 và 325, quân số đông gấp 3 lần Hoa Kỳ có mặt tại trận địa gồm 2 trung đoàn TQLC Mỷ và tiểu đoàn 37 Biệt Ðộng Quân/VNCH. Tất cả chừng 6000 người. Chiến thuật cố hữu của Hà Nội sau trước vẫn là ‘ lấy thịt đè người ‘ với địa pháo như mưa sau đó biển người tràn ngập, bất chấp đạn bom mìn bẩy và sinh mạng của cán binh.
Như Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đã nói ‘ không cần chiến thắng vì Khe Sanh không cần thiết với chúng, nó chỉ quan trọng với thể diện của người Mỹ ‘ . Vì vậy Khe Sanh đã biến thành địa ngục trần gian từ giây phút đầu với quyết tâm nướng người trên biển lửa của các cấp lảnh đạo cộng sản. Những trận tấn công cảm tử khắp các mặt trận và địa pháo liên tục ngày đêm của Bắc Việt, được báo chí truyền thông phương tây và Mỹ đem về trình chiếu tại Hoa Kỳ, đã trở thành những dư luận tồi tệ và nổi hoang mang cả nước về một trận Ðiện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh. Sự chết chóc của quân đội Mỹ tại chiến trường đã được tường thuật theo lũy thừa nhân qua đầu óc mao tôn cương của đám ký giả da trắng da màu bản xứ bất lương, càng tác động thêm sự chán ghét và chống đối chiến tranh, vô tình đem lại chiến thắng từ trên trời rớt xuống, mà VC không bao giờ có thể đạt được tại chiến trường.
Trong đợt công kích dữ dội này, pháo địch đã làm nổ tung kho đạn dự trữ lớn nhất trong căn cứ, thiêu hủy nhiều trực thăng tại bãi đáp kế cận. Dã man nhất là quân Bắc Việt đã tràn ngập bản thượng tại Làng Vei, tàn sát đồng bào vô tội, khiến mọi người phải bỏ nhà cửa chạy vào các căn cứ quân sự xin tị nạn. Trước sự đau khổ và chết chóc của dân chúng, nhiều đơn vị TQLC đã chiến đấu với giặc Cộng cả ngày 27-1 mới mở được con đường máu, đem tất cả dân làng về căn cứ và di chuyển họ bằng phi cơ về lánh nạn tại Ðà Nẳng.
Ðại tá Lownds , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 26 TQLC cũng là chỉ huy trưởng của căn cứ Khe Sanh đã phải đối diện với nhiều vấn đề nan giải như thay thế 1500 tấn đạn dược bị tiêu hủy, sữa chữa phi đạo bị pháo kích làm hư hại khiến cho loại vận tải cơ C-130 không đáp được. Ngoài ra còn phải giải quyết hàng trăm người tị nạn và đơn vị DPQ tại xã Khe Sanh đang tràn ngập trong căn cứ.
Ngày 22-1 các phi cơ nhỏ C-123 tiếp tế khẩn cấp 130 tấn đạn các loại, đồng thời tiểu đoàn 1/9 cũng tới tăng viện đóng quân tại hướng tây căn cứ. Công cuộc phòng thủ được sắp xếp để thích ứng với tình hình bằng cách dời xa thêm các vị tr1 tới chân đồi 950 băng ngang qua sông Rao-Quan và đồi 881 Nam. Ngày 27-1 Liên Ðoàn 1 BDQ/VNCH tăng cường cho Khe Sanh với một đại đội thuộc tiểu đoàn 21 và toàn bộ tiểu đoàn 37/BDQ do thiếu tá Hoàng Phổ chỉ huy. Dù được chỉ định phòng thủ tuyến lửa xa nhất và nằm ngoài vòng đai căn cứ cuối phi đạo dài hơn 1500m. Tuy nhiên QLVNCH tại Khe Sanh đã giữ vững được vị trí của mình tới khi tàn cuộc chiến trước sự thán phục và ngưỡng mộ của TQLC Hoa Kỳ. Ðây là môt lưc lượng mạnh và đắc lực nhất đã cứu vãn hệ thống phòng thủ yếu ớt tại vị trí đãm nhận.
Tuần lê cuối cùng của tháng 1-1968 dù Cộng quân không ngớt pháo kích và tấn công nhưng phi đạo cũng được sửa sang hoàn tất để các loại vận tải cơ hạng nặng lên xuống tiếp tế và tải thương, chở người tị nạn về Ðà Nẳng. Lợi dụng sương mù dày đặc gần như che kín bầu trời phía tây Quảng Trị, ngày 23/1 VC đã mỡ màn trận địa pháo bằng các khẩu 152 ly do Nga viện trợ, được đặt tại hai hệ thống giao thông hào phía bắc vỹ tuyến 17 và bên kia biên giới Lào, tập trung đổ vào Khe Sanh liên tục không ngừng. Các đơn vị chính qui của Bắc Việt nhân cơ hội này cũng áp sát đến phi đạo, hai bên chỉ còn cách nhau chừng 400m. Tại đây VC đào hầm hố cá nhân và chuẩn bị một cuốc tấn công.
Nhưng ngày 24/1 trời Quảng Trị bổng quang đảng trở lại, nên hơn 450 phi xuất của không lực Hoa Kỳ đều đổ xuống Khe Sanh cho dù pháo binh phòng không của VC rất dữ dội làm thiệt hại nhiều phi cơ khi công tác. Bên ngoài các lực lượng khác của TQLC Mỹ vẫn bám chặt chiến trường, mở lại quốc lộ số 9 để nhận tiếp liệu. Theo ước lượng của của các nhà quân sự, vào lúc đó Bắc Việt đã tập trung trong khu vực từ Cồn Thiên, Gio Linh , Làng Vei tới Khe Sanh chừng 50.000 quân chủ lực, để chuẩn bị một trận đánh lớn. Ðặc biệt cả Mỹ lẫn VC đều tuyên bố không có hưu chiến vào ngày tết nguyên đán Mậu Thân (31-1-1968) tại 5 tỉnh cực bắc thuộc quân khu I VNCH.
+ Ngày 29-1-1968 : Ðêm 30 Tết Mậu Thân, VC Tấn Công VNCH.
Trước tình hình quân sự đang nóng bỏng tại Khe Sanh nên chính phủ VNCH đã ban lệnh hưu chiến vào những ngày đầu Tết Mậu Thân từ 48 giờ, nay chỉ còn hiệu lực 36 tiếng, bắt đầu từ 18 giờ ngày 29-1 đến 6 giờ ngày 31-1-1968. Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến có hiệu lực, Hà Nội đã mở một cuộc tổng công kích trên toàn thể lảnh thổ VNCH , trong giờ phút linh thiêng mọi người đang đón mừng và cúng kính trong năm mới. Vào lúc giao thừa (29-1-1968) cũng là đêm 30 tết, các thị xã Qui Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Nha Trang.. là những mục tiêu bị VC tấn công đầu tiên. Có điều quân Bắc Việt không hề tấn công vào bất cứ một vị trí nào của quân Mỹ và Ðồng Minh trong đợt này.
Nhưng tình hình tại Khe Sanh thì khác vì chiến cuộc đã bắt đầu tàn khốc bằng những trận pháo kích dồn dập không dứt, những trận đánh đẳm máu quanh căn cứ và các tiền đồn trên đồi 861 và 881 Nam. Nhưng hầu hết các cuộc tấn công đều bị bẽ gảy nhờ có không trợ và pháo yểm rất chính xác. Tóm lại căn cứ rất an toàn nhờ hệ thống phòng thủ kiên cố nhất là sự hiện diện của Biệt Ðộng Quân VNCH.
Ngày 7-2-1968 với sự yểm trợ của 10 chiến xa PT-76 do Liên Sô chế tạo, quân Bắc Việt đã tấn công và tràn ngập Trại Lực Lượng Ðặc Biệt Làng Vei nằm sát biên giới Lào. Cộng Sản đã tán sát tất cả 9 cố vấn Mỹ và hơn 300 dân sự chiến đấu. Một số chiến xa bị LL đặc biệt bắn cháy nhưng số còn lại đã truy giết những quân nhân Biệt Kích và Ðịa Phương Quân VNCH còn sống sót , cùng đồng bào Làng Vei chạy về căn cứ Khe Sanh đang bị vây hãm, trong số này có nhiều đặc công VC trà trộn theo. Nhưng sau đó đều bị LLDB tiêu diệt.
Tuy vậy, tướng Westmoreland vẫn quyết định giữ vững Khe Sanh như một thách đố để chứng tỏ với thế giới và bọn chóp bu Hà Nội, về khả năng vô địch của không quân Mỹ nhất là các pháo đài bay B-52 sẽ không bao giờ cho phép cộng sản Bắc Việt mơ tưởng việc tái diễn cái gọi là Ðiện Biên Phủ thứ 2 tại đây.
Ngày 9-2 tiểu đoàn 1/9 TQLC đã tái chiếm lại tiền đồn Hầm Ðá ngoài căn cứ sau một đêm lọt vào tay cộng quân. Các tuần lễ liên tiếp vào những ngày thời tiết tốt, hàng ngàn phi vụ của Hải, Không quân và TQLC thi nhau trút bom đạn vào những hầm hố giao thông hào như mạng nhện của VC đào cố thủ quanh căn cứ, B-52 đã biến các đồi núi nằm ngoài chu vi an toàn thành cõi hoang vu không có sự sống, qua chiến dịch không tập ‘ Niagara ‘ kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh VN.
Nhưng như Duẩn, Giáp đã tuyên bố ‘ phải chiến thắng Mỹ dù có phải đột rụi Trường Sơn hay hy sinh thêm vài triệu cán binh bộ đội miền Bắc, thì cũng đáng ‘.Do đó măc cho bom đạn trút xuống như mưa, cộng sản Bắc Việt vẫn bám trụ trong hầm hố giao thông hào , nhắm bắn các máy bay vận tải C-130 lên xuống tiếp tế và tải thương cho căn cứ. Vì có nhiều máy bay loại này bị bắn hạ nên 6 tuần, Hoa Kỳ quyết định dùng C-123 thay thế vì loại này cất cánh nhanh và có thể đáp xuống phi đạo ngắn.
Ngày 28-2, quân Bắc Việt thuộc sư đoàn 304 mở ba cuộc tấn công vào tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 37 BDQ/VNCH nhưng bị đẩy lui. Ðây là đợt tấn công cuối cùng vào Khe Sanh vì suốt tháng 3-1968 cộng sản chỉ còn pháo kích mà thôi. Ðể giải toả áp lực cho căn cứ, từ 1 tới 12-4-68 tướng West quyết định tổ chức các cuộc hành quân Pegasus Hoa Kỳ và hành quân Lam Sơn 207A của QLVNCH do thiếu tướng J.J Tolson chỉ huy tổng quát. Quân số tham dự khoảng 10.000 người của 3 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 kỵ binh không vận cộng với Trung doàn 1 và 26 TQLC Hoa Kỳ. Phía VNCH có Chiến đoàn 3 Dù (TD 3,6 và 8) do Ðại tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy.
Trước một ngày, sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ và sư đoàn 1 VNCH mở cuộc hành quân nghi binh tại Cồn Thiên và Gio Linh, kết thúc ngày 1-5-68 qua các cuộc chạm súng không đáng kể. Trong khi đó, cuộc hành quân giải toả Khe Sanh được thực hiện bằng hai gọng kềm, một mặt các tiểu đoàn TQLC từ Cà Lu theo quốc lộ 9 tiến về căn cứ, còn các đơn vị kỵ binh không vận được trực thăng đổ xuống các bãi đáp cách Khe Sanh chừng 5 dặm để mở các cuộc hành quân theo hướng đồn Pháp cũ tiến về căn cứ. Ngày 6-4 các đơn vị kỵ binh không vận đã bắt tạy được với TQLC Khe Sanh tại đồi 471,552,558, 689.
Riêng 3 tiểu đoàn thuộc chiến đoàn 3 Dù/VNCH được trực thăng vận về hướng tây nam Khe Sanh ngày 7-4-68 đã dụng độ và sau nữa giờ giao tranh, cộng quân đã chém vè để lại nhiều xác chết. Ngày 8-4 lúc 8 giờ sáng, lực lượng ky binh không vận vào Khe Sanh. 10-4 KBKV tái chiếm trại lực lượng làng Vei. Ngày 14-4 tiểu đoàn 3/26 tái chiếm đồi 881 Bắc. Ngày 15-4 chấm dứt hai cuộc hành quân Pegasus và Lam Sơn 207A giải tỏa Khe Sanh, Chiến đoàn 3 Dù về Huế còn 2 lử đoàn của Sư đoàn 1 KBKV ở lai Khe Sanh thay thế cho 4 tiểu đoàn TQLC đã trấn thủ căn cứ, để tiếp tục càn quét tàn quân Bắc Việt trong các khu vực phụ cận.
Ngày 6-7-1968 người lính Mỹ cuối cùng rời căn cứ Khe Sanh, thay vào đó là các cuộc hành quân lưu động của quân đoàn III thủy bộ Hoa Kỳ và các cuộc dội bom của không quân chiến thuật Mỹ vì đây là vùng oanh kích tự do, cho tới khi QLVNCH mở cuộc hành quân Hạ Lào 719 năm 1971, căn cứ Khe Sanh mới được sử dụng lại.
2- TIỂU ÐOÀN 37 BÐQ/VNCH TẠI KHE SANH :
Binh chủng Biệt Ðộng Quân ra đời ngày 1-7-1960 qua sự chấp thuận của Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Những đại đội biệt lập đầu tiên, được huấn luyện chiến thuật phản du kích, chống xâm nhập của cán binh bộ đội Bắc Việt. Cũng từ đó cho tới ngày 30-4-1975 Miền Nam sụp đổ, người lính BDQ là những chiến sĩ dũng cảm can trường trên khắp các mặt trận, không thua kém bất cứ một quân binh chủng nào của QLVNCH. Từ năm 1970 các trại dân sự chiến đấu do Hoa Kỳ và VN thành lập, dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên được sáp nhập vào binh chủng thành các tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, nâng tổng số BDQ lên tới 40.000 người. Ngày 10-4-1975 Sư đoàn 106 BDQ ra đời với nhiệm vụ đãm trách phòng thủ vòng đai Sài Gòn-Chợ Lớn cho tới khi được lệnh rã ngũ.
Nhiều tiểu đoàn BDQ được tuyên dương trước quân đội cũng như được nhận huy chương cao quí của tổng thống Hoa Kỳ, trong đó có TD44BDQ của Thiếu tá Lê Văn Dần, tiểu đoàn 52 BDQ , tiểu đoàn 42 BDQ của Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt và Tiểu đoàn 37 BDQ của Thiếu tá Hoàng Phổ, đơn vị VN duy nhất tham dự trận Khe Sanh.
Vào những ngày cuối tháng 1-1968 tình hình quân sự tại Khe Sanh đã trở nên nguy ngập trước áp lực thí quân biển người của Bắc Việt. Do đó Trung tướng Robert E.Cushman Jr, tư lệnh Ðệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ quyết định tăng cường thêm cho căn cứ này Tiểu đoàn 1/9 TQLC Mỹ và Tiểu đoàn 37 BDQ/VNCH + một Ðại đội của Tiểu đoàn 21 BDQ vào ngày 27-1-1968 nâng tổng số quân phòng thủ lên tới 6000 người.
Vừa mới tham dự trận Thạch Trụ (Quảng Ngãi) chưa được về hậu cứ để dưỡng quân và thay đổi quân trang cũng như lảnh lương, thì có lệnh của Liên Ðoàn 1 BDQ tăng phái cho TQLC Hoa Kỳ tại Khe Sanh. Không ai biết chỉ huy trưởng căn cứ lúc đó là Ðại tá Lownds đã nghĩ gì, hoặc là không tin tưởng vào QLVNCH hay muốn thử sự can trường dũng mảnh của hai con cọp khét tiếng miền địa đầu giới tuyến, nên đã chỉ định BDQ/VNCH phòng thủ một vị trí dài 1500m, nằm ngoài vòng đai căn cứ về phía đông cuối phi đạo, đối diện thường trực từng phút giờ đạn pháo của VC nhắm vào các loại phi cơ lên xuống Khe Sanh.
Thân phận bèo bọt của đời lính trận VNCH là thế đó, đem máu và mạng sống để tô đậm thêm màu cờ sắc áo quân đôi, giữ vững từng tất đất quê hương để các thế hệ Miền Nam vui sống an lành tại hậu phương. Một số may mắn tới được bờ đất hứa, nay thành danh thành người nhưng họ đã quên hết những ân tình trời biển của người lính trận, vẫn ngạo khinh chối bỏ sự hy sinh cao quí của cha anh ngày trước, mà vong nguồn rộng miệng và trên hết thay đổi tính người để trở thành những con thú người hai chân, quay cuồng múa máy lập dị khật khùng, khiến cho cha anh của họ phải trùm đầu bôi mặt khi phải đối diện với đồng đội đồng bào.
Tiểu đoàn 37 BDQ + 1 Ðại đội tăng phái của TD 21 nhận lãnh vị trí của TQLC nên nơi này đã có sẳn hầm hố và giao thông hào từ trước. Trong lúc người lính Hoa Kỳ tại căn cứ đều đặn được nhận lảnh lương bổng, tiếp tế thực phẩm thay đổi quân trang thuốc men, thì người lính BDQ/VNCH ở Khe Sanh không có lương nhiều tháng, không được tăng viện để thay thế sự tổn thất thương vong qua các cuộc đụng độ và pháo kích của cộng quân. Rồi ai nấy đều lo lắng cho số phận của gia đình mình trong cơn loạn lạc máu lửa khi cộng sản phát động trận Tết Mậu Thân khắp Miền Nam từ đêm 30 Tết Mậu Thân (27-1-1968).
Ken Pipes, một sĩ quan TQLC tại Khe Sanh tự hỏi nếu là người lính Hoa Kỳ trong hoàn cảnh như vậy, liệu họ có còn tinh thần để tiếp tục chiến đấu hay không ? Vây mà binh sĩ dưới quyền của Thiếu Tá Hoàng Phổ vẫn phòng thủ vững vàng vị trí trong đêm, ban ngày thì tung quân đột kích thẳng vào phòng tuyến của giặc, lấy được nhiều chiến lợi phẩm trong đó có đại bác không giật tối tân mới được Nga chế tạo. Tóm lại như lời kết luận của Pipes ‘ Họ rất hãnh diện được chiến đấu chung với sĩ quan và binh sĩ của TD37 BDQ/VNCH, một đơn vị đồng minh nổi tiếng rất xứng đáng được Hoa Kỳ xưng tụng ‘.
Từ ngày 29-1-1968, TD 37 BDQ đã đụng độ với VC khi tung quân hoạt động bên ngoài. Ngày 21-2-68, quân Bắc Việt mở một cuộc pháo kích dữ đội bằng đạn đại bác và hỏa tiển nhắm vào vị trí phòng thủ của TD37 BDQ. Xế trưa cùng ngày, một tiểu đoàn VC mở cuộc tấn công BDQ nhưng đã bị đẩy lui bỏ lại nhiều xác chết. Ngày 23-2 VC pháo kích vào vị trí BDQ 1307 đạn pháo kích đủ loại. Ngày 29-2-68 vào lúc 10 giờ 15 phút tối, VC mở ba cuộc tấn công vào các vị trí phòng thủ của TD37BDQ, cuộc giao tranh kéo dài tới 4 giờ 30 sáng thì giặc chém ve, bỏ lại tại trận địa 78 xác chết và nhiều vũ khí cá nhân cũng như cộng đồng. Tóm lại trận chiến Khe Sanh 1968, TD37 và một đại đội tăng phái của TD21BDQ tham chiến tại Khe Sanh, đã làm rạng rỡ màu cờ sắc áo của binh chủng BDQ Mũ Nâu, đồng thời đem lại sự kính phục cảm tình của quân đội Hoa Kỳ trước sự chiến đấu can trường và nhất là tinh thần trách nhiệm, kỷ luật của người lính VNCH.
Có một câu chuyện thật cảm động và thắm thiết tình huynh đệ chi binh liên quan tới sự tham chiến của Tiểu đoan 37 BDQ tại Khe Sanh. Ðó là việc Ðại Tá Trần Văn Hai lúc đó là Chỉ Huy BDQ/VNCH đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng, khi ông đã cùng Thiếu tá Ngô Minh Hồng (trưởng phòng 3) và Ðại úy Trần Ðình Ðàng (trưởng phòng 1) từ Sài Gòn ra Ðà Nẳng, theo các chuyến bay tiếp tế và tải thương C-130 hay C-123 tới tận địa ngục Khe Sanh để thăm viếng ủy lạo cũng như chia sớt bớt phần nào nổi tân khổ chạm đáy kiếp đời của người lính BDQ/VNCH thuộc TD21 và 37 đang tăng phái chiến đấu tại đây.
Ngoài ra còn có Nhiếp Ảnh Gia Chiến Trường số 1 Miền Nam là Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Hạnh và Phóng viên Quân đội Hữu Nhơn cũng đã lặn lội tới đây để hòa mình với người lính trận BDQ. Hai ông đã nhiều lần bị thương khi theo các toán cảm tử BDQ trong các cuộc đột kích vào phòng tuyến địch. Nhờ vậy đã chụp được nhiều hình ảnh xác thực và giá trị nói lên sự hy sinh cao cả của lính chiến VNCH. Riêng phóng viên Hữu Nhơn đã viết những bài tường thuật thật cảm động về sự can trường anh dũng của TD37 BDQ, khiến cho ai đọc tới cũng không cầm nổi nước mắt trước nổi cực khổ và chết chóc có một không hai của đời lính bất hạnh Miền Nam và thân phận nhược tiểu của Người VN cả nước trong trò hề biển lận nghĩa nhân của bọn đế quốc tư bản và cộng sản quốc tế.
Trưa 30-4-1975 khi có lệnh đầu hàng buông súng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai Tư lệnh Sư đoàn 7 BB kiêm Chỉ huy trưởng căn cứ Ðồng Tâm, cựu Chỉ Huy Trưởng BDQ/VNCH đã quyên sinh bằng độc dược tại bản doanh đơn vị, quyết không để cho giặc làm nhục. Ông đã cùng với các tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ.. làm rạng danh muôn đời QLVNCH về tấm gương hào hùng, oanh liệt và xứng đáng để cho các thế hệ VN noi gương.
3- HOA KỲ CHIẾN THẮNG TẠI KHE SANH NHƯNG THUA VC Ở HOA THỊNH ÐỐN :
Ngay khi VC chiếm dinh Ðộc lập vào buổi trưa ngày 30-4-1975, thì tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Ðại sứ VNCH là Trần Kim Phương, đã nghẹn ngào tuyên bố trước báo chí Mỹ :’ làm đồng minh với Hoa Kỳ là đi vào tử điạ ‘.
Gần ba mươi năm sau, lúc mà vết thương của người vong quốc chưa kịp đóng vảy, thì vào ngày 29-9-2004 trên chương trình ‘ No spin zone’ của đài Fox. Một ký giả tên O’Reilly, sau khi bàn tán chuyện chính trị của A Phú Hãn và Iraq, lại kéo VNCH vào cuôc qua gợi ý :’ Vì Nam VN đã không chiến đấu cho tự do, nên họ không có tự do ngày nay ‘ , Câu hỏi được TT.Bush đáp ‘ YES’ .
Nhưng mới đây DB Loretta Sanchez khi phát biểu trên chương trình ‘ The O’Reilly Factor ‘, đã khẳng định sự sai lầm và không đúng sự thật về câu trả lời của tổng thống Bush. Ông còn lấy làm tiếc, là trước đây Bush đã không chịu tình nguyện sang chiến đấu tại chiến trường VN, nên đã không biết gì hết về cuộc chiến vừa qua, trong đó đã có hằng triệu quân dân Nam VN, chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ.
Một số còn sống sót sau cuộc chiến đã tới Mỹ tị nạn cọng sản, và họ vẫn tiếp tục chiến đấu không ngừng nghĩ, để dành cho được tự do, dân chủ chân chính tại quê hương VN, mà chính Hoa Kỳ đã trực tiếp bóp nát trước năm 1975. Những thành quả đạt được khắp nẻo đường hải ngoại, như chính quyền công nhận lá cờ vàng biểu tượng của quốc dân VN, tượng đài vinh danh chiến sĩ Việt-Mỹ,sự hình thành các cộng đồng lớn mạnh của người Việt tị nạn, các vụ biểu tình chống Trần Trường trương cờ máu, ảnh quỷ và các phái đoàn VC cũng như kinh tài. Ngoài ra sự ngồi lại của tập thể cưụ chiến binh VNCH, bao gồm cả lực lượng cảnh sát, cán bộ xây dựng nông thôn và thế hệ hậu duệ trong nhiều năm qua rất tốt đẹp... Ðó không phải là sự tranh đấu của người Việt hiện nay, để đòi lại tự do dân chủ của mình, bị chính Hoa Kỳ dùng viện trợ tước đoạt từ mấy chục năm về trước ?
Hoa Kỳ đã một mình một chợ dàn dựng lên, cái gọi là hiệp đinh Ba Lê tháng 1-1973, ngưng chiến và hòa binh cho VN. Vì đã có chủ đích, nên hiệp định này, chỉ có hai điểm đem lợi ích cho họ được thi hành nghiêm chỉnh. Ðó la việcợ quân Mỹ phải triệt thoái hết về nước, theo đúng hạn chót đã ấn định vào ngày 29-3-1973 và quân xâm lăng Bắc Việt , được Hoa Kỳ cho phép ở lại Nam VN. Chỉ điều khoản thứ hai này, đủ chứng tỏ Hoa Kỳ không bao giờ muốn ký hòa ước với cọng sản, để thực thi sự ngưng chiến và tìm kiếm hòa bình cho VN. Trái lại ngụy tạo, hiệp định Ba Lê năm 1973, để có cơ hội công khai và hợp pháp, viết lên bản án tử hình của VNCH, ngay từ lúc ký.
Hành động bất lương của một siêu cường, đã khiến cho bao chục triệu người Nam VN, chẳng những đã tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, mà còn bị hủy diệt nền tự do dân chủ, mà họ đã dùng xuơng máu, huyết lệ của chính mình, để bồi đắp, xây dựng và duy trì liên tục từ 1955 đến cuối tháng 4-1975. Cũng vì sự gian manh trên, từ đó uy tín của nước Mỹ không còn được thế giới tự do tin tưởng và mong cậy kết giao hợp tác.
Ðã thế, hai vị TT của Mỹ là Nixon và Ford, còn trắng trợn, nhổ nuốt những lời hứa hen đã được quốc hôi, chính phủ nước mình ký nhận ban hành, đồng thời với những thơ riêng mực đen giấy trắng , liên tục gởi cho TT Nguyễn Văn Thiệu, rằng là hãy ký hiệp định, để tiếp tục có viện trợ. Còn nếu VC bội ước, thì Hoa Kỳ sẽ lập tức dội bom, cũng như trở lại tức khăc, bảo vệ VNCH. Nhưng tất cả chỉ là cuội, chẳng những Hoa Kỳ ngoảnh mặt trước sự sự công khai vi phạm hiệp ước ngưng bắn của VC , mà còn tàn nhẫn cúp hết viện trợ đã hứa, dành cho QLVNCH có phương tiện, chống lại cuộc xâm lăng Nam VN của khối đệ tam cọng sản quốc tế.
Thực chất cuộc chiến VN tới nay vẫn là một đề tài được tranh luận dai dẳng, chính TT. Bush khi tuyên bố ‘ Yes’ trên đài Fox, về một vấn đề gai gốc mà bản thân chưa biết trọn, chứng tỏ là Hoa Kỳ, dù đã tốn nhiều máu xương tiền bạc về cuộc chiến đó, vẫn chưa hiểu thấu cái chiến tranh, mà Cọng sản gọi là ‘ chiến tranh cách mạng ‘, đã đánh bại người Mỹ và thế giới tự do, tại hai mặt trận Trung Hoa lục địa và Nam VN.
Thực chất cuộc chiến đó, nay qua thời gian và những khai quật của lịch sử, cho thấy đó chỉ là một thứ chiến tranh vừa du kích lẫn qui ước, trong mục đích dấy loạn và khuynh đảo thế giới, bằng hành động phi nhân man rợ, chứ không có gì là cao siêu huyền diệu, như một số triết gia trí thức Tây Phương và Hoa Kỳ, từng ca tụng điên cuồng trong quá khứ. Người Mỹ vì không thực tâm chiến thắng tại trận địa, trong khi có đủ điều kiện để chiến thắng, đó mới chính là thực chất của cuộc chiến Ðông Dương.
Nói chung, qua kinh nghiệm xương máu của chính người Việt Quốc Gia, trong suốt 75 năm tranh đấu, cho thấy Hoa Kỳ, Thế Giới Tự Do cũng như Nam VN, đã thua VC qua cuộc chiến với một lý do duy nhất : ‘ Ðó là sự hèn nhát của tập thể, vì sợ và ích kỷ, nên đã vô tình hay cố ý, yểm trợ đắc lực cho Bắc Việt các nguồn tình báo, nhân lực và tiếp tế ‘.Một sự kiện lích sử mà không hề thấy tại các nước khác bị chia đôi, sau thế chiến 2 như Ðức, Triều Tiên và Ðài Loan. Do trên, Nam VN không bị cọng sản cưởng chiếm, cũng là chuyện lạ.
Vì đâu phải mất nước ? một câu hỏi đã đè nặng trong tâm trí người Việt sống sót sau cuộc chiến. Bởi chính họ đã có mặt hay thật sự chứng kiến toàn bộ cuộc chiến, từ đầu cho tới trọn ngày 30-4-1975, khi Nam VN buông súng đầu hàng. Rõ ràng trong suốt cuộc chiến từ năm 1955-1975, dù có mặt Hoa Kỳ và Ðồng Minh hay chỉ một mình chiến đấu đơn độc, QLVNCH vẫn luôn làm chủ chiến trường, tại hầu hết các mặt trận nhỏ lớn, quan trọng như Tết Mậu Thân, Mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc, Kontum, Bình Ðịnh, Quảng Trị.
Ngay những ngày tháng 4-1975 trong giờ thứ 25, dù phải chống trả với thù trong giặc ngoài, QLVNCH vẫn chiến đấu anh dũng tại các mặt trận Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Phước Long, Tây Ninh-Hậu Nghĩa và nhất là Xuân Lộc, đã làm quân xâm lăng Bắc Việt, phải khiếp sợ la làng, đổ thừa Mỹ trở lại, giội bom nguyên tử. Ngày 30-4-1975, khi các quân đoàn Bắc Việt, từ tám hướng siết chặt vòng vây Thành Ðô, nhưng bên trong vẫn còn đủ an toàn, để Hoa Kỳ dùng trực thăng bốc người ra chiến hạm.
Trên sông Sài Gòn cũng như khắp bầu trời, cũng chính là những sinh lộ, bởi vì khắp nơi còn có sự chiến đấu của SD3,5,7,9,18,21,22,25 BB, của Lữ Ðoàn 3 Xung Kích, SD Dù, Biệt kích Dù-Lôi Hổ, TQLC, Thiết Giáp,BDQ, DQP+NQ,XDNT,CSDC và ngay cả những Thiếu Sinh Quân, Nhân Dân Tự Vệ. Tất cả đã ở lại chiến đấu tới cùng, và đã làm vỡ mặt Hà Nội, khi những chiếc T54,PT76 vừa tới Ngã Tư Bảy Hiền, đã bị các chiến sĩ Liên Ðoàn 81 BCND và Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù bắn hạ. Lịch sử VN cận đại, là những trang huyết lệ, được người lính trận viết tại chiến hào, hố bom và ngay trên cơ thể của mình, chứ không phải qua những tài liệu, nói là của Tây Tàu, Nga Mỹ, vừa được giải mả. Chính sử gia Tư Mã Thiên, nhờ bản thân bị đoạn trường , mà viết nên một thiên sử ký tới nay, vẫn được thế nhân ngưỡng phục..
Tuy văn khố Hoa Kỳ nói là đã cho giải mật nhiều tài liệu lịch sử có liên quan tới cuộc chiến vừa qua nhưng những điều vừa bật mí, thật sự chưa được đưa hết ra ánh sáng. Do muốn tìm hiểu sự thật về một cuộc chiến, đã làm cho Hoa Kỳ phải sa lầy và mang rất nhiều tai tiếng, nên suốt mấy chục năm qua, nhiều nhân vật, từ những quân nhân thuần tuý đã tham dự cuộc chiến như Ðô Ðốc Grant Sharp, Ðại Tướng William C. Westmoreland.. hay trong ngành ngoại giao như GS Tiến Sĩ Stephen Young, Robert Sharphen, William Colby.. đều thắc mắc về sự bại trận của Hoa Kỳợ, mà theo họ chẳng bao giờ có thể xảy ra, trong một cuộc chiến vô cùng chênh lệch giữa hai đối thủ, cho dù phía sau lưng VC có Liên Xô, Trung Cộng và khối Ðông Âu chống lưng giúp đỡ tận lực.
Ðúng như Ðô Ðốc Grant Sharp , cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Strategy For Defeat ‘ (Cuộc Chiến Không Cần Thắng), trong đó vị Cựu Tư Lịnh , cũng là một tướng lãnh từng tham dự tại chiến trường Nam VN nhiều năm, nói rằng Ông và thuộc cấp dưới quyền bị các nhà lãnh đạo của nước Mỹ tại Hoa Thạnh Ðốn, cột chặt một tay, khi họ chiến đấu tại VN. Thảm kịch này mãi tới năm 1985, sau khi chính phủ Hoa Kỳ ban hành một số luật mới, cho phép giảm độ mật , thì Bộ Quốc Phòng mới cho in phổ biến hai mươi sáu trang, tóm tắt luật chiến đấu của quân lực.Hoa Kỳ tại Ðại Hàn và VN, gọi là ‘ Rules of Engagement ‘.
Ðọc Congressional Record, làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương xót cho những đồng đôi, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan khiên hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được giội bom vào xe của VC khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không giội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia..
Chính phủ Hoa thịnh Ðốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Ðồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn tiết lộ những bí mật quân sự, quốc phòng cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719.. Ðó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Phil Golding, thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ :’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được ‘.
Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần thắng ‘, nên dân chúng đã xuống đường, đã đảo mà báo chí thời đó, gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự , người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Ðốn ‘ Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’
Tóm lại qua cuộc chiến VN do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các cấp bị thương tật. Không có gì tồn tại với thời gian, trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ : ‘ cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ ‘.
.
Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu dồn dập ở hậu phương . Ðây cũng là lúc ăn nên làm ra của những thông tín viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật , có kèm hình ảnh, không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ những quân đội, đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’ , theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó.
Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày cuối cùng tháng 4 đen 1975.
Từ ngày 21-1-1968 cộng sản Bắc Việt đã huy động hơn 20.000 cán binh chính qui để vây hãm căn cứ Khe Sanh, quyết tâm nhốt 6000 quân TQLC Hoa Kỳ và Tiểu Ðoàn 37 BDQ/VNCH vào trong một lòng chảo như chúng đã từng đánh bại quân Pháp năm 1954 tại Ðiện Biên Phủ. Nhưng cuối cùng căn cứ Khe Sanh vẫn đứng vững vì kỹ thuật quân sự mà Bắc Việt đã xài năm xưa tại Ðiện Biên Biên Phủ, nay đã bị Hoa Kỳ đánh bại tại Khe Sanh.
Tháng 6-1968 sau khi gần như toàn bộ cộng sản Bắc Việt đã tự ý hay bị đánh đuổi ra khỏi khu vự Khe Sanh thì người Mỹ cũng quyết định tháo gở và rút khỏi căn cứ này với lý do thật đơn giản ‘ Khe Sanh đã không có giá trị chiến lược và cần thiết ‘ khi quân cộng sản đã không còn khả năng tập trung như trước. Hơn nữa các đại đơn vị Mỹ như Sư Ðoàn 1Kỵ Binh Không Vận và SD101 Dù Mỹ đang trấn đóng tại Quảng Trị, có đủ quân số và khả năng lưu động để hành quân phản công bất kỳ ở đâu.
Thực tế vì muốn thu hút phiếu bầu trong kỳ tổng thống lần thứ 2, nên Johnson đã ra lệnh ngưng oanh tạc miền Bắc từ 31-3-1968, giúp cơ hội cho Hà Nội nhanh chóng bổ sung quân và tiếp tế cho cán binh tại Miền Nam mở cuộc tổng công kích đợt 2 vào các tỉnh thị của VNCH. Ngoài ra kế hoạch ‘ hàng rào điện tử Eye Marker ‘ của bộ trưởng quốc phòng Mc Namara tại đường ranh vỷ tuyến 17, cũng thất bại vì VC xâm nhập vào miền Nam bằng trục đường mòn thiết lập trên lảnh thổ Hạ Lào.
Tóm lại CSVN đã thành công về mặt tuyên truyền như chúng đã từng thu được năm 1954 tại bàn hội nghị Ðông Dương tại Geneve qua trận Ðiện Biên Phủ. Lần này lại dùng Khe Sanh để dương đông kích tây, tấn công vào lảnh thổ VNCH trong dịp tết Nguyên Ðán Mậu Thân 1968. Cộng Sản Hà Nội đã thất bại hoàn toàn tại Khe Sanh cũng như trận Tết Mậu Thân nhưng chúng cũng đã làm chậm lại hay phá vở kế hoạch của Tướng West sử dụng quân Mỹ đánh qua Lào để tiêu diệt con đường mòn HCM khi ông rời khỏi chức vụ.
Cuối cùng vì hậu quả của Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968, tổng thống Johnson không ra ứng cử nhiệm kỳ 2. Tháng 5-1970 qua thảm kịch đẳm máu tại đại học Kent State ở Ohio, đã khiến cho tổng thống Nixon không còn con đường lựa chon nào khác là phải rút quân và bỏ VNCH cho cộng sản quốc tế Hà Nội. Bắc Việt đã thua quân lực Mỹ và VNCH khắp các chiến trường nhưng chúng đã đánh bại chánh phủ Hoa Kỳ ngay tai Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Ðài ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, trong cuộc chiến tranh VN vừa qua.
Với đầu óc lắt léo nói một đàng làm một ngã của ông Obama như mọi người đã thấy và nghe từ 10 ngày qua, nên sự kiện nhắc tới trận Khe Sanh (1967-1968) thời chiến tranh VN sẽ mang hàm ý ‘ ai muốn nghĩ sao củng được ‘ nghĩa là muốn xưng tụng thì cứ xưng tụng, còn chối bỏ thì cứ coi như đó là một bài học của nước Mỹ để rút kinh nghiệm tại Iraq và A Phú Hản.
Tuy nhiên đối với người tị nạn VN nhất là những người lính già còn sống sót, chúng ta phải cám ơn ông Obama đã nhắc tới địa danh Khe Sanh, để mọi người cùng hảnh diện về sự can trường của những chiến sĩ Tiểu Ðoàn 21 và 37 BDQ/VNCH suốt thời gian tham chiến bên cạnh quân lực Hoa Kỳ, chẳng những làm cho giặc cộng kinh hoàng bạt vía mà còn khiến cho người Mỹ cũng nể phục và ngưởng kính QLVNCH.-/-
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Giêng 2009
Mường Giang
No comments:
Post a Comment